Thông tin cần thiết cho cuộc sống

Thứ Tư, 4 tháng 3, 2015

Cách thực tiến hành kiểm tra vú có kết quả

Đàn ông mắc bệnh ung thư vú thường có khối u có thể được cảm nhận.
Cục và các dấu hiệu khác có thể được gây ra bởi ung thư vú nam hay bởi các điều kiện khác. Kiểm tra với bác sĩ của bạn nếu bạn nhận thấy một sự thay đổi ở ngực.
Các xét nghiệm kiểm tra độ ngực được sử dụng để phát hiện (tìm) và chẩn đoán bệnh ung thư vú nam giới. Khi tới bệnh viện hay một cơ sở chuyên khoa thì các bác sĩ sẽ tiến hành làm các xét nghiệm và thủ tục sau đây có thể được sử dụng:

Khám sức khỏe và lịch sử: Một kỳ thi của cơ thể để kiểm tra các dấu hiệu chung về sức khỏe, bao gồm cả kiểm tra các dấu hiệu của bệnh, như cục u hoặc bất cứ điều gì khác mà có vẻ không bình thường. Một lịch sử của những thói quen sức khỏe của bệnh nhân và bệnh tật qua và phương pháp điều trị cũng sẽ được thực hiện.

Khám vú lâm sàng (CBE): Một kỳ thi của vú bởi một bác sĩ hoặc chuyên gia y tế khác. Các bác sĩ sẽ cẩn thận cảm thấy ngực và dưới cánh tay có cục u hoặc bất cứ điều gì khác mà có vẻ không bình thường.

Siêu âm thi: Một thủ tục trong đó sóng âm năng lượng cao (siêu âm) được bật ra khỏi các mô bên trong hoặc các cơ quan và làm cho tiếng vang. Những tiếng vọng tạo thành một hình ảnh của các mô cơ thể được gọi là một siêu âm. Các hình ảnh có thể được in ra để được xem xét sau.

MRI (chụp cộng hưởng từ): Một thủ tục mà sử dụng một nam châm, sóng radio, và một máy tính để thực hiện một loạt các hình ảnh chi tiết của khu vực bên trong cơ thể. Thủ tục này cũng được gọi là hạt nhân hình ảnh cộng hưởng từ (NMRI).

Nghiên cứu sinh hóa máu: Một thủ tục trong đó một mẫu máu được kiểm tra để đo lượng chất nhất định phát hành vào máu của các cơ quan và các mô trong cơ thể. Một bất thường (cao hơn hoặc thấp hơn so với bình thường) số lượng của một chất có thể là một dấu hiệu của bệnh tật trong cơ quan hoặc mô mà làm cho nó.

Sinh thiết: Việc loại bỏ các tế bào hoặc mô để họ có thể được xem dưới kính hiển vi về bệnh học để kiểm tra các dấu hiệu của bệnh ung thư. Sau đây là các loại khác nhau của sinh thiết:

Fine-Chọc hút bằng kim (FNA) Sinh thiết: Việc loại bỏ các mô hoặc dịch sử dụng một cây kim mỏng.

Sinh thiết lõi: Việc loại bỏ các mô sử dụng một kim loại.

Sinh thiết cắt bỏ: Việc loại bỏ toàn bộ khối u của mô.

Nếu ung thư được tìm thấy, kiểm tra được thực hiện để nghiên cứu các tế bào ung thư.

Quyết định về việc điều trị tốt nhất là dựa trên kết quả của các xét nghiệm này

Xét nghiệm bao gồm những điều sau đây:

Estrogen và progesterone thử nghiệm: Một thử nghiệm để đo lượng estrogen và progesterone (hormone) thụ trong mô ung thư. Nếu ung thư được tìm thấy trong vú, tế bào từ khối u được kiểm tra trong phòng thí nghiệm để tìm hiểu xem estrogen và progesterone có thể ảnh hưởng đến cách bệnh phát triển. Các kết quả thử nghiệm cho thấy việc điều trị nội tiết tố có thể ngăn chặn ung thư phát triển.

HER2 thử nghiệm: Một thử nghiệm để đo lượng HER2 trong mô ung thư. HER2 là một protein yếu tố tăng trưởng đó sẽ gửi tín hiệu tăng trưởng các tế bào. Khi hình thức ung thư, các tế bào có thể làm cho quá nhiều của protein, gây ra các tế bào ung thư nhiều hơn để phát triển. Nếu ung thư được tìm thấy trong vú, tế bào từ khối u được kiểm tra trong phòng thí nghiệm để tìm hiểu xem có quá nhiều HER2 trong các tế bào. Các kết quả thử nghiệm cho thấy việc điều trị kháng thể đơn dòng có thể ngăn chặn ung thư phát triển.

Sợ sống còn của người mắc bệnh ung thư vú nam cũng tương tự như ở phụ nữ bị ung thu vú

Sống còn đối với những người đàn ông bị ung thư vú tương tự như đối với phụ nữ bị ung thư vú khi sân khấu của họ lúc chẩn đoán là như nhau. Ung thư vú ở nam giới, tuy nhiên, thường được chẩn đoán ở giai đoạn sau. Ung thư tìm thấy ở giai đoạn sau có thể ít có khả năng được chữa khỏi.

Một số yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng bệnh (cơ hội phục hồi) và các lựa chọn điều trị.

Tiên lượng (cơ hội phục hồi) và các tùy chọn điều trị phụ thuộc vào những điều sau đây:

Các giai đoạn của ung thư (cho dù đó là chỉ trong vú hoặc đã lan rộng đến những nơi khác trong cơ thể).

Các loại ung thư vú.
Cho dù các bệnh ung thư cũng được tìm thấy trong vú khác.
Estrogen thụ và mức độ progesterone thụ trong các mô ung thư.
Tuổi của bệnh nhân và sức khỏe nói chung.

Nguồn tham khảo: http://benhvienungbuouhungviet.vn/tim-hieu-benh-ung-thu/ung-thu-vu-nam/ung-thu-vu-nam-duoc-chan-doan-nhu-the-nao.aspx



Thứ Bảy, 28 tháng 2, 2015

Ung thư hắc tố phân biệt biểu hiện với nốt ruồi bình thường

Làm thế nào để phân biệt biểu hiện bệnh ung thư hắc tố với ung thư da, với nốt ruồi bình thường.
Để biết vết sẫm trên cơ thể bạn là nốt ruồi hay ung thư, hãy kiểm tra da hàng tháng, bởi hầu hết ung thư da bắt nguồn từ những điểm bất thường.
Ariel Ostad, trợ lý giáo sư về da liễu tại Đại học New York hướng dẫn cách phân biệt sau:
Nốt ruồi thường:
- Là một điểm vô hại, mọc từ lúc còn bé hoặc khi đã trưởng thành, và có thể xuất hiện bất cứ đâu trên cơ thể.
- Thường thì nó nhỏ hơn đầu tẩy của một chiếc bút chì, tròn và đối xứng, với đường viền trơn mượt và thậm chí có màu sắc. Chúng thường không to ra hoặc thay đổi hình dạng.
Dày sừng do nắng (Actinic keratosis)

- Là một thể tiền ung thư phổ biến, thường xuất hiện ở da đầu, mặt, tay hoặc mặt trước cánh tay. Nên loại bỏ chúng sớm bởi 5-10% vết dạng này chuyển hóa thành ung thư.
- Bạn sẽ nhìn thấy một mảng đỏ hoặc hồng tươi, nhám, có thể ngứa hoặc có vảy.
U biểu mô tế bào cơ sở
- Gây ra bởi ánh mặt trời và thường thấy trên mặt, loại ung thư này dễ điều trị nếu phát hiện sớm.
- Nó thường xuất hiện như đám màu hơi đỏ hoặc hơi hồng, có thể chảy máu hoặc đóng vảy. Vết tấy này dường như liền lại, sau đó lại tái phát.
U biểu mô tế bào dạng vảy
- Loại ung thư này thường xuất hiện trên cơ thể, chân hoặc tay và có thể chữa được nếu phát hiện sớm.
- Bạn sẽ thấy có một đám thịt dày lên ở xung quanh và có thể lột da, chảy máu, có đường viền không đều. Nó giống như một hạt cơm hơn là một vết sưng.
U hắc tố
- Dạng ung thư nguy hiểm này có thể lan nhanh chóng, nhưng chữa được nếu phát hiện sớm. Bệnh ung thư  hắc tố thường thấy ở chân của phụ nữ, hiếm khi trên mặt. Ở đàn ông, nó xuất hiện trên thân mình nhiều hơn.
- Báo với bác sĩ nếu bạn thấy một vùng sẫm, hình thù không đều với màu đen, nâu hoặc thậm chí nâu đỏ.

Sử dụng thuốc ức chế quá trình phát triển ung thư hắc tố

Pembrolizumab còn được gọi là MK-3475, là thuốc điều biến miễn dịch đầu tiên có tác dụng ức chế quá trình chết theo chương trình, đã được FDA chấp thuận sử dụng trong điều trị ung thư hắc tố giai đoạn tiến triển, không có chỉ định phẫu thuật và đáp ứng kém với các phương pháp điều trị khác.
Pembrolizumab đã được cấp phép hoạt động tại Mỹ, sau khi đánh bại rất nhiều sản phẩm thuốc cùng loại khác, gồm có: nivolumab)-thuốc này đã được sử dụng tại Nhật Bản để điều trị ung thư hắc tố (Bristol-Myers Squibb/Ono), MPDL-3280A (Roche/Genentech/Chugai, MED14736 (AstraZeneca/MedImmune).
Pembrolizumab được thiết kế sử dụng cho bệnh nhân đã điều trị ung thư hắc tố với Ipilimumab, có biểu hiện BRAF V600, sau khi điều trị với Ipilimumab và thuốc ức chế BRAF.
Nghiên cứu gồm 173 bệnh nhân ung thư hắc tố đã kháng với Ipilimumab, tất cả bệnh nhân được điều trị với Pembrolizumab với liều 2mg/kg hoặc liều cao hơn là 10mg/kg.
Tại cả hai liều, khoảng 24% bệnh nhân có khối u nhỏ đi, hiệu quả này kéo dài ít nhất từ 1,4-8,5 tháng. Các kết quả này đã được đăng tải trên Lancet và ngày 15/7 vừa qua.

Các tác dụng phụ phổ biến nhất của pembrolizumab là mệt mỏi, ho, buồn nôn, ngứa, phát ban, chán ăn, táo bón, đau khớp, và tiêu chảy. FDA nhấn mạnh, tác dụng phụ ít gặp hơn là khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến các cơ quan khỏe mạnh thông qua các hiệu ứng miễn dịch trung gian, bao gồm phổi, đại tràng, tuyến nội tiết tố sản xuất, và gan.
Một trong những nhà nghiên cứu chính của thử nghiệm lâm sàng PD-1, Jeffrey S.Weber-giám đốc Trung tâm nghiên cứu ung thư hắc tố Donald A. Adam, tại trung tâm ung thư Tampa, Florida, nhận xét rằng: "Pembrolizumab (PD-1) loại thuốc miễn dịch ức chế quá trình chết theo chương trình đầu tiên được FDA chấp thuận, và có hiệu quả rõ ràng sẽ kéo dài sự sống cho nhiều bệnh nhân bị ung thư hắc tố giai đoạn di căn xa. Sự chấp thuận này là một bước tiến thực sự, một mốc quan trọng trong việc điều trị bệnh.”
Thế hệ mới của loại thuốc ức chế quá trình chết theo chương trình, cũng đang được thử nghiệm trong nhiều loại ung thư khác nhau, như trong điều trị bệnh ung thư phổi. Trong thực tế, đây là một phương thức thứ tư – phương thức miễn dịch, tham gia cùng với hóa trị, xạ trị và phẫu thuật để giải quyết căn bệnh này.
Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là các loại thuốc này sẽ vô cùng tốn kém. Theo một báo cáo trên tờ Wall Street Journal, Pembrolizumab sẽ có giá vào khoảng 150,000 USD/năm ở Hoa Kỳ,  trong khi ở Nhật Bản, nơi nivolumab gần đây đã được sử dụng, chi phí của thuốc khoảng $ 143,000 USD/ năm.
Nguyên nhân bệnh ung thư hắc tố chưa được tìm ra nhưng những yếu tố gây ung thư: nevi loạn sản, tiền sử gia đình, nhiều nốt ruồi bất thường, tia cực tím,...

vaccin ung thư trị liệu bệnh ung thư hắc tố

Ai cũng biết bệnh ung thư hắc tố có những yếu tố gây nên là: tia cực tím, tiền sử gia đình, tàn nhan,... và việc điều trị loại bệnh nay đang gặp nhiều khó khăn.
Các vaccin ung thư trị liệu, không giống như các vaccin đặc thù dự phòng nhiễm trùng, nhắm khổi động hệ miễn dịch để giúp nó chống lại các khối u đang có. Trong thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 ngày, được thực hiện tại 21 trung tâm y tế, các nhà nghiên cứu đã chỉ định ngẫu nhiên 185 bệnh nhân bị u hắc tố di căn, có nghĩa là ung thư đã lan tỏa, nhận vaccin sau đó là interleukin-2- một thuốc hoạt hóa hệ miễn dịch, hoặc chỉ dùng interleukin-2.
Những người được dùng phối hợp vaccin thuốc cho thấy cải thiện nhiều hơn so với những người chỉ được dùng thuốc - đó là theo nghiên cứu được suất bản trên số ra ngày 2 tháng 6 của New England Journal of Medicine. 

Kết quả thử nghiệm: Khoảng 16% những người được dùng phối hợp vaccin/ interleukin-2 cho biết các khối u của học đã co rút lại 50% hoặc hơn, so với 6% ở những người chỉ được dùng interleukin-2. Những người trong nhóm vaccin/thuốc cũng có thời gian sống thêm không tiến triển bệnh dài hơn một chút - 2,2 tháng so với 1,6 tháng - có nghĩa là thời gian khối u không phát triển dài hơn. Những bệnh nhân được dùng phối hợp cũng đã sống lấu hơn trung bình gần 7 tháng so với những người chỉ dùng interleukin -2 gần 18 tháng so với khoảng 11 tháng. Dù có "xu hướng mạnh mẽ" này, những kết quả này vẫn chưa đạt được mức có ý nghĩa thống kê - đó là phát biểu của trưởng nhóm nghiên cứu, TS Douglas Schawartzentruber, giám đốc Y khoa của Trung tâm Chăm sóc Ung thư Goshen ở ĐH Y tế Indiana. Schawartzentruber nói: "Đây là lần đầu tiên một vaccin cho thấy lợi ích trong điều trị cho bênh nhân bị u hắc tố và là một ví dụ sớm cho sự thành công về vaccin ung thư".
Ông và các nhà nghiên cứu khác đã báo cáo rằng mặc dù tác dụng độc do điều trị gây ra là tương tự ở cả hai nhóm, nhưng vaccin này "có thêm một số tác dụng độc khác" ở nhóm được điều trị phối hợp, bao gồm các rối loạn tim thoáng qua như nhịp tim nhanh bất thường (chứng tim đập nhanh), hoặc loạn nhịp tim (15% so với 2%). Ngoài ra, các nhà nghiên cứu đã báo cáo một ca tử vong liên quan đến điều trị ở nhóm chỉ dùng interleukin -2 và 2 ca tử vong ở nhóm liệu pháp phối hợp.
William Chambers, phụ trách Nghiên cứu và Miễn dịch Học ung thư Lâm sàng của Hội Ung thư Hoa Kỳ cho biết các vaccin trị liệu đang được nghiên cứu cho một vài loại ung thư, với các mức độ thành công khác nhau. Trong thử nghiệm u hắc tố, "chúng có đáp ứng. Đó chưa phải là đáp ứng lớn, nhưng rõ ràng có con số khá đáng kể là đáp ứng" - Chamber nói. "Với bệnh này, chưa có nhiều thành công trong điều trị cho bệnh nhân. Tiên lượng là kém. Họ học hỏi được một số bài học có ý nghĩa qua nghiên cứu này". Để cho vaccin này có tác dụng, bệnh nhân phải có một loại mô đặc biệt, gọi là HLA-A2, có khoảng một nửa số người da trắng. Năm ngoái, cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ đã phê chuẩn một loại vaccin để điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Các nhà nghiên cứu tại ĐH California, LosAngeles cũng đang nghiên cứu một loại vaccin để điều trị u nguyên bào thần kinh đệm, loại ung thư não ác tính nguy hiểm nhất.
Vaccin u hắc tố có cơ sở là một peptid - một phần nhỏ của protein, có ở bề mặt của các tế bào ung thư u hắc tố. Được biết đến là vaccin peptid gp 100, việc tiêm này mồi cho hệ miễn dịch nhận biết protein, để từ đó tìm các tế bào sản xuất protein và phá hủy chúng. Schawartzentruber nói thuốc tăng cường hệ miễn dịch interleukin -2 nâng cao hiệu quả của vaccin bằng kích thích tạo các tế bào lympho, một loại tế bào bạch cầu lưu hành khắp cơ thể. Nhiều tế bào lympho lưu hành hơn có nghĩa là có nghiều tế bào hơn sẵn sàng làm công việc mà vaccin đã "huấn luyện" cho chúng làm. Theo các chuyên gia, tỷ lệ sống thêm 5 năm của bệnh nhân u hắc tố là dưới 10%. interleukin -2 đã được FDA phê chuẩn để điều trị ung thư hắc tố di căn và ung thư thận. Các nhà nghiên cứu nói rằng bước tiếp theo là cải thiện hiệu quả của vaccin. Họ hy vọng bằng sự phối hợp vaccin với các chất khác (gọi là tá dược) hoặc các thuốc tăng cường miễn dịch, họ có thể tạo ra đáp ứng mạnh hơn. Schawartzentruber nói: " Hiện nay, chúng ta có một bằng chứng mạnh mẽ cho một nguyên tắc là với điều trị miễn dịch chúng ta có thể thấy lợi ích, nhưng ở thời điểm này lợi ích là còn nhỏ".
Những gì chúng ta quyết định làm là cố gắng phát triển loại vaccin khác phải tạo ra cho riêng mỗi bệnh nhân- các nhà nghiên cứu khác nói. Vaccin này do Viện Ung thư quốc gia Hoa Kỳ phát triển và đây cũng là cơ quan tài trợ nghiên cứu này.

Kéo dài thời gian tuổi thọ cho bệnh nhân ung thư hắc tố di căn

Kéo dài thời gian tuổi thọ cho bệnh nhân ung thư hắc tố di căn
Trong một nghiên cứu hồi cứu, các nhà nghiên cứu trường Đại học Saint Louis đã phát hiện ra những bệnh nhân bị ung thư hắc tố di căn não có thể được điều trị với liều lượng lớn interleukin-2 (HD IL-2)-một liệu pháp kích hoạt hệ thống miễn dịch của cơ thể để tiêu diệt các tế bào ung thư.
Các nghiên cứu gần đây đã được công bố trên tạp chí Thực hành và Nghiên cứu Hóa trị liệu, quan sát tám bệnh nhân trải qua liệu pháp này tại Saint Louis University.
John Richart, MD, giáo sư y học tại SLU và điều tra viên chính của nghiên cứu, người đầu tiên điều trị bệnh nhân bị ung thư hắc tố di căn não bằng cách sử dụng HD IL-2 trong năm 1999.
Ông Richart nói :"Theo cổ điển, bệnh nhân ung thư hắc tố di căn não không xem xét sử dụng HD IL-2 vì điều trị được cho là vô ích. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy bệnh nhân được điều trị bằng HD IL-2 có thể kéo dài thời gian sống của họ."

Ung thư hắc tố là dạng nguy hiểm nhất của ung thư da, hình thành từ các tế bào hắc tố (loại tế bào tiết ra sắc tố da-melanin). Ung thư hắc tố di căn não gây ra nhiều khó khăn trong việc điều trị. Theo CDC, tại Mỹ, ung thư hắc tố đứng hàng thứ 3 trong số các bệnh ung thư hay gây di căn não. Ông Richart cho biết tỷ lệ sống trung bình của các bệnh nhân bị di căn não là khoảng bốn tháng, tỷ lệ sống trung bình là 8,7 tháng.
Trong quá trình điều trị, bệnh nhân được tuyền hóa chất có tác dụng kích thích hệ thống miễn dịch nhận biết và tiêu diệt các tế bào ác tính - thời gian truyền là sáu ngày/1 chu kỳ x 4 chu kỳ, bệnh nhân phải vào bệnh viện và được giám sát chặt chẽ của các bác sĩ và y tá.
Để đủ điều kiện điều trị bằng HD IL-2, bệnh nhân phải có thể trạng và chức năng não tốt - có nghĩa là họ không có tổn thương não đang tiến triển hoặc có triệu chứng của tổn thương não. Trong quá khứ, bệnh nhân mắc bệnh đã di căn não được coi là không đủ điều kiện để điều trị ung thư hắc tố vì các bác sĩ cho rằng việc điều trị sẽ gây phù não, đe dọa tính mạng hoặc gây tổn thương não không thể phục hồi.
"Trong nghiên cứu này, chúng tôi thấy rằng không có trường hợp tử vong liên quan đến điều trị. Những phát hiện của chúng tôi chứng minh rằng HD IL-2 có thể được coi là một lựa chọn cho những bệnh nhân ung thư hắc tố di căn não," MD-Melinda Chu-bác sĩ nội trú năm đầu tại SLU và là tác giả đầu tiên của nghiên cứu cho biết. SLU là trung tâm y tế duy nhất trong khu vực cung cấp phương pháp điều trị này.
Richard nói rằng: "Chúng ta cần một nhân viên điều dưỡng có tay nghề cao để điều trị HD-IL-2 thành công. Nhóm điều dưỡng của chúng tôi tại SLU, mỗi điều dưỡng chăm sóc một bệnh nhân 24/24, họ giúp bệnh nhân hiểu và tiếp tục điều trị."

Thứ Sáu, 27 tháng 2, 2015

Ung thư vú nam có nguy cơ mắc tiếp xúc bức xạ

Hiện nay ung thư vú ở nam giới là rất hiếm. Khoảng 400 người được chẩn đoán mắc bệnh mỗi năm ở Anh so với khoảng 50.000 phụ nữ. Tuy nhiên, các bệnh ung thư vú trước đó được tìm thấy, thì tốt hơn các cơ hội đánh bại nó - vì vậy, bạn có thể thấy tầm quan trọng của nó là để tìm cho ra bất kỳ thay đổi bất thường và có được họ kiểm tra bởi bác sĩ của bạn ngay lập tức.
Các dấu hiệu, triệu chứng, biểu hiện ung thư vú nam giới
Kiểm tra các mô vú của bạn thường xuyên là đặc biệt quan trọng đối với những người đàn ông có tiền sử gia đình bị ung thư vú hoặc một điều kiện di truyền được gọi là hội chứng Klinefelter.
Hầu hết các mô vú ở nam giới được tập trung ở các khu vực trực tiếp phía sau núm vú và vùng sắc tố xung quanh, được gọi là quầng vú.
Hầu hết - mặc dù không phải tất cả - ung thư vú nam giới xuất hiện ở gần núm vú như cục u công ty.
Những thay đổi bất thường để tìm cho ra bao gồm:
Về bệnh ung thư vú - bệnh ung thư vú của nam giới

Vả. 1: một khối u phía sau hoặc gần núm vú của bạn, hoặc ở nách của bạn
Vả. 2: một sự thay đổi trong sự xuất hiện của núm vú hoặc quầng vú của bạn (bao gồm cả thay đổi hướng của núm vú)
Vả. 3: núm vú xả hay núm vú lở loét (loét)
Đàn ông và con trai đôi khi có thể phát triển mô vú nhiều hơn bình thường do một tình trạng gọi là gynaecomastia. Điều này không liên quan đến ung thư.
Nếu bạn nhận thấy bất kỳ thay đổi bất thường với các mô vú của bạn, hãy kiểm tra với bác sĩ của bạn.
Bác sĩ sẽ kiểm tra các triệu chứng của bạn và có thể giới thiệu bạn cho các bài kiểm tra tại một phòng khám bệnh viện nếu cần thiết. Điều này là quan trọng bởi vì nếu bạn có bệnh ung thư vú, bạn có thể bắt đầu điều trị ung thư vú nam ngay, mang đến cho bạn cơ hội tốt nhất có thể đánh bại nó. Ung thư vú ở nam giới được chẩn đoán bằng nhiều phương pháp tương tự như việc chẩn đoán ở phụ nữ, bao gồm cả hình ảnh (chụp nhũ ảnh hoặc siêu âm) và có thể làm sinh thiết.
Các yếu tố nguy cơ ung thư vú ở nam giới
Ung thư vú ở nam giới là rất hiếm nhưng có một số điều có thể làm tăng nguy cơ phát triển bệnh. Ung thư vú ở nam giới được cho là gây ra bởi sự kết hợp của các yếu tố. Chúng tôi vẫn đang tìm hiểu về những gì có thể làm tăng và giảm nguy cơ của một người đàn ông mắc bệnh này. Có những yếu tố đặc biệt làm tăng nguy cơ ung thư vú không có nghĩa là bạn chắc chắn sẽ bị ung thư vú. Tương tự, không có nhiều yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư vú không có nghĩa là bạn sẽ không bị mắc bệnh.
Thậm chí nếu bạn có một yếu tố rủi ro và được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú, không có cách nào chứng minh rằng các yếu tố nguy cơ thực sự gây ra nó.
Các yếu tố nguy cơ đã biết ung thư vú ở nam giới là:
tuổi
Nguy cơ gia tăng bệnh ung thư vú khi bạn già đi. Hầu hết những người đàn ông mắc bệnh ung thư vú ở Anh là trên 60.
Di truyền học - bệnh ung thư vú trong gia đình
Lỗi trong một số gen - như BRCA1 và BRCA2 - được biết là làm tăng nguy cơ của nam giới và phụ nữ mắc bệnh ung thư vú. Cứ 100 người đàn ông với một lỗi trong BRCA2, khoảng sáu đến chín sẽ mắc bệnh ung thư vú trong cuộc đời của họ. Nguy cơ với BRCA1 là nhỏ hơn, với khoảng một trong mỗi 100 người đàn ông mang lỗi gen phát triển ung thư vú.
Tiếp xúc với bức xạ ion hóa
Điều trị xạ trị ngực - ví dụ để điều trị u lympho Hodgkin - được biết là làm tăng nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ. Có một số bằng chứng cho thấy nó hơi có thể làm tăng nguy cơ ở những người đàn ông quá. Nếu bạn có bất kỳ mối quan tâm về xạ trị ngực trước đó, liên hệ với chuyên gia hoặc bác sĩ của bạn.
Nội tiết tố
Đàn ông thường sản xuất các mức cao của androgen - hormone nam - chẳng hạn như testosterone, và các mức thấp của hormone nữ, estrogen. Sự mất cân bằng nội tiết tố, nơi có mức estrogen được nâng lên và nồng độ androgen được giảm nhẹ có thể làm tăng nguy cơ của một người đàn ông mắc bệnh ung thư vú. Điều này là do estrogen có thể thúc đẩy sự phát triển của một số bệnh ung thư vú.
ung thư tuyến tiền liệt
Mang bệnh ung thư tuyến tiền liệt có thể làm tăng nguy cơ của một người đàn ông mắc bệnh ung thư vú. Những lý do để liên kết này không được hiểu rõ, nhưng có thể liên quan đến nồng độ hormone. Khoảng một trong sáu người đàn ông bị ung thư vú sẽ bị ung thư tuyến tiền liệt trong cuộc đời của họ quá.
Giảm nguy cơ
Hầu hết đàn ông có nguy cơ của ung thư vú là thấp. Tuy nhiên, bạn có thể muốn thực hiện các bước để giảm nguy cơ của bạn, đặc biệt là nếu bạn biết bạn có thể có nguy cơ cao hơn, ví dụ do lịch sử gia đình của bạn.

Thứ Năm, 26 tháng 2, 2015

Bệnh nhân hiến tủy cần được kiểm tra trước khi làm phẫu thuật

Việc bệnh nhân mắc bệnh ung thư máu có được người thích hợp để ghép tủy là một điều tuyệt với, cứu vớt lấy họ, bởi đây là cách điều trị ung thư máu có hiệu quả nhất, và những gì mà người cho ghép tủy cần quan tâm là Hiến máu và tủy xương là một quá trình tự nguyện, là sự đồng ý cho phép các Bác sĩ để thu hút các tế bào gốc máu từ máu hoặc tủy xương cho việc cấy ghép.
Nguy cơ nghiêm trọng nhất xảy ra với người hiến tặng có liên quan đến việc sử dụng và ảnh hưởng của gây mê trong phẫu thuật. Sau khi phẫu thuật, có thể cảm thấy mệt mỏi hay yếu và gặp khó khăn khi đi bộ, các khu vực nơi tủy xương được lấy ra có thể cảm thấy đau trong một vài ngày. Có thể sẽ cần thuốc giảm đau để giảm khó chịu. Người hiến tủy có thể sẽ trở lại với thói quen bình thường trong vòng một vài ngày, nhưng có thể mất một vài tuần để hoàn toàn bình phục.
Hiến tế bào gốc máu ngoại vi
Những rủi ro của loại hình hiến tế bào gốc này là tối thiểu. Trước khi tặng, người hiến sẽ được tiêm một loại thuốc làm tăng số lượng của các tế bào gốc trong máu. Thuốc này có thể gây ra tác dụng phụ, chẳng hạn như đau xương, đau cơ, nhức đầu, mệt mỏi, buồn nôn và ói mửa. Các triệu chứng ung thư máu này thường biến mất trong vòng một vài ngày sau khi ngừng tiêm.
Đối với việc hiến tặng, sẽ có một ống thông (mỏng, ống nhựa) được đặt trong một tĩnh mạch ở cánh tay. Nếu các tĩnh mạch trong tay là quá nhỏ hoặc có những bức thành mỏng, có thể cần phải có một ống thông được đưa vào một tĩnh mạch lớn hơn ở ngực, cổ hoặc ở háng. Điều này hiếm khi gây tác dụng phụ, nhưng biến chứng có thể xảy ra bao gồm không khí bị mắc kẹt giữa phổi và thành ngực (tràn khí màng phổi), chảy máu và nhiễm trùng. Trong thời gian đóng góp, có thể cảm thấy chóng mặt hoặc có ớn lạnh, tê hoặc ngứa ran xung quanh miệng, và chuột rút. Sẽ biến mất sau khi tặng.
Hiến tủy xương
Thu thập các tế bào gốc từ tuỷ xương là một loại phẫu thuật và được thực hiện trong phòng điều hành. Sẽ được gây mê cho thủ tục. Kim sẽ được chèn qua da và vào xương để rút tủy ra. Quá trình này thường mất 1-2 giờ.
Sau khi tủy xương được thu thập, sẽ được đưa đến phòng hồi sức trong khi thuốc tê. Sau đó, có thể được đưa đến một căn phòng bệnh viện nơi mà các nhân viên điều dưỡng có thể theo dõi. Khi đang hoàn toàn tỉnh táo và có thể ăn và uống, sẽ được xuất viện.
Trong hiến, máu được lấy thông qua một ống thông trong tĩnh mạch ở cánh tay. Máu được gửi thông qua một máy tính sẽ đưa ra các tế bào gốc. Phần còn lại của máu sau đó trả lại cho thông qua một tĩnh mạch ở cánh tay khác. Quá trình này được gọi là apheresis. Phải mất 2-6 giờ và được thực hiện như một thủ tục ngoại trú. Thường sẽ trải qua 2-4 phiên apheresis, tùy thuộc vào có bao nhiêu tế bào gốc máu là cần thiết. 

Điều kiện hiến tặng:
Người cho tủy – Phức hợp phù hợp mô chính MHC6
Phức hợp phù hợp mô chính hay còn gọi là kháng nguyên bạch cầu người HLA.
Phức hợp này bao gồm một nhóm gene nằm trên nhánh ngắn của nhiễm sắc thể số 6, gồm 3 loại gene, tạo ra các kháng nguyên hệ HLA, gồm 2 loại chính:
- Kháng nguyên lớp I gồm các sản phẩm gene ở các locus A, B, C
- Kháng nguyên lớp II gồm các sản phẩm gene ở các locus D, DR, DQ và DP.
Các kháng nguyên lớp I được xác định bằng phương pháp huyết thanh học nên được gọi là kháng nguyên SD (Serum determined). Còn các kháng nguyên HLA-D được xác định bằng phản ứng nuôi cấy bạch cầu hỗn hợp.
Các bạch cầu lymphô thường mang cả 2 loại kháng nguyên trên. Một số lớn các tế bào khác chỉ mang kháng nguyên lớp I tức kháng nguyên SD. Kháng thể HLA xuất hiện chủ yếu do truyền máu, mang thai, ghép tổ chức hay do tiêm truyền bạch cầu ở những người tình nguyện. Sự khác biệt kháng nguyên hệ HLA của cơ thể cho và nhận càng lớn thì hiện tượng thải ghép xảy ra càng nhanh. Do đó, muốn mảnh ghép sống lâu trong cơ thể thì cần có sự giống nhau về kháng nguyên HLA của cơ thể cho và nhận. 
Xem thêm cách điều trị ung thư máu tại đây: https://sites.google.com/site/ungbuouvietnam/dhieu-ma-benh-nhan-hien-tuy-can