Thông tin cần thiết cho cuộc sống: tháng 2 2015

Thứ Bảy, 28 tháng 2, 2015

Ung thư hắc tố phân biệt biểu hiện với nốt ruồi bình thường

Làm thế nào để phân biệt biểu hiện bệnh ung thư hắc tố với ung thư da, với nốt ruồi bình thường.
Để biết vết sẫm trên cơ thể bạn là nốt ruồi hay ung thư, hãy kiểm tra da hàng tháng, bởi hầu hết ung thư da bắt nguồn từ những điểm bất thường.
Ariel Ostad, trợ lý giáo sư về da liễu tại Đại học New York hướng dẫn cách phân biệt sau:
Nốt ruồi thường:
- Là một điểm vô hại, mọc từ lúc còn bé hoặc khi đã trưởng thành, và có thể xuất hiện bất cứ đâu trên cơ thể.
- Thường thì nó nhỏ hơn đầu tẩy của một chiếc bút chì, tròn và đối xứng, với đường viền trơn mượt và thậm chí có màu sắc. Chúng thường không to ra hoặc thay đổi hình dạng.
Dày sừng do nắng (Actinic keratosis)

- Là một thể tiền ung thư phổ biến, thường xuất hiện ở da đầu, mặt, tay hoặc mặt trước cánh tay. Nên loại bỏ chúng sớm bởi 5-10% vết dạng này chuyển hóa thành ung thư.
- Bạn sẽ nhìn thấy một mảng đỏ hoặc hồng tươi, nhám, có thể ngứa hoặc có vảy.
U biểu mô tế bào cơ sở
- Gây ra bởi ánh mặt trời và thường thấy trên mặt, loại ung thư này dễ điều trị nếu phát hiện sớm.
- Nó thường xuất hiện như đám màu hơi đỏ hoặc hơi hồng, có thể chảy máu hoặc đóng vảy. Vết tấy này dường như liền lại, sau đó lại tái phát.
U biểu mô tế bào dạng vảy
- Loại ung thư này thường xuất hiện trên cơ thể, chân hoặc tay và có thể chữa được nếu phát hiện sớm.
- Bạn sẽ thấy có một đám thịt dày lên ở xung quanh và có thể lột da, chảy máu, có đường viền không đều. Nó giống như một hạt cơm hơn là một vết sưng.
U hắc tố
- Dạng ung thư nguy hiểm này có thể lan nhanh chóng, nhưng chữa được nếu phát hiện sớm. Bệnh ung thư  hắc tố thường thấy ở chân của phụ nữ, hiếm khi trên mặt. Ở đàn ông, nó xuất hiện trên thân mình nhiều hơn.
- Báo với bác sĩ nếu bạn thấy một vùng sẫm, hình thù không đều với màu đen, nâu hoặc thậm chí nâu đỏ.

Sử dụng thuốc ức chế quá trình phát triển ung thư hắc tố

Pembrolizumab còn được gọi là MK-3475, là thuốc điều biến miễn dịch đầu tiên có tác dụng ức chế quá trình chết theo chương trình, đã được FDA chấp thuận sử dụng trong điều trị ung thư hắc tố giai đoạn tiến triển, không có chỉ định phẫu thuật và đáp ứng kém với các phương pháp điều trị khác.
Pembrolizumab đã được cấp phép hoạt động tại Mỹ, sau khi đánh bại rất nhiều sản phẩm thuốc cùng loại khác, gồm có: nivolumab)-thuốc này đã được sử dụng tại Nhật Bản để điều trị ung thư hắc tố (Bristol-Myers Squibb/Ono), MPDL-3280A (Roche/Genentech/Chugai, MED14736 (AstraZeneca/MedImmune).
Pembrolizumab được thiết kế sử dụng cho bệnh nhân đã điều trị ung thư hắc tố với Ipilimumab, có biểu hiện BRAF V600, sau khi điều trị với Ipilimumab và thuốc ức chế BRAF.
Nghiên cứu gồm 173 bệnh nhân ung thư hắc tố đã kháng với Ipilimumab, tất cả bệnh nhân được điều trị với Pembrolizumab với liều 2mg/kg hoặc liều cao hơn là 10mg/kg.
Tại cả hai liều, khoảng 24% bệnh nhân có khối u nhỏ đi, hiệu quả này kéo dài ít nhất từ 1,4-8,5 tháng. Các kết quả này đã được đăng tải trên Lancet và ngày 15/7 vừa qua.

Các tác dụng phụ phổ biến nhất của pembrolizumab là mệt mỏi, ho, buồn nôn, ngứa, phát ban, chán ăn, táo bón, đau khớp, và tiêu chảy. FDA nhấn mạnh, tác dụng phụ ít gặp hơn là khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến các cơ quan khỏe mạnh thông qua các hiệu ứng miễn dịch trung gian, bao gồm phổi, đại tràng, tuyến nội tiết tố sản xuất, và gan.
Một trong những nhà nghiên cứu chính của thử nghiệm lâm sàng PD-1, Jeffrey S.Weber-giám đốc Trung tâm nghiên cứu ung thư hắc tố Donald A. Adam, tại trung tâm ung thư Tampa, Florida, nhận xét rằng: "Pembrolizumab (PD-1) loại thuốc miễn dịch ức chế quá trình chết theo chương trình đầu tiên được FDA chấp thuận, và có hiệu quả rõ ràng sẽ kéo dài sự sống cho nhiều bệnh nhân bị ung thư hắc tố giai đoạn di căn xa. Sự chấp thuận này là một bước tiến thực sự, một mốc quan trọng trong việc điều trị bệnh.”
Thế hệ mới của loại thuốc ức chế quá trình chết theo chương trình, cũng đang được thử nghiệm trong nhiều loại ung thư khác nhau, như trong điều trị bệnh ung thư phổi. Trong thực tế, đây là một phương thức thứ tư – phương thức miễn dịch, tham gia cùng với hóa trị, xạ trị và phẫu thuật để giải quyết căn bệnh này.
Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là các loại thuốc này sẽ vô cùng tốn kém. Theo một báo cáo trên tờ Wall Street Journal, Pembrolizumab sẽ có giá vào khoảng 150,000 USD/năm ở Hoa Kỳ,  trong khi ở Nhật Bản, nơi nivolumab gần đây đã được sử dụng, chi phí của thuốc khoảng $ 143,000 USD/ năm.
Nguyên nhân bệnh ung thư hắc tố chưa được tìm ra nhưng những yếu tố gây ung thư: nevi loạn sản, tiền sử gia đình, nhiều nốt ruồi bất thường, tia cực tím,...

vaccin ung thư trị liệu bệnh ung thư hắc tố

Ai cũng biết bệnh ung thư hắc tố có những yếu tố gây nên là: tia cực tím, tiền sử gia đình, tàn nhan,... và việc điều trị loại bệnh nay đang gặp nhiều khó khăn.
Các vaccin ung thư trị liệu, không giống như các vaccin đặc thù dự phòng nhiễm trùng, nhắm khổi động hệ miễn dịch để giúp nó chống lại các khối u đang có. Trong thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 ngày, được thực hiện tại 21 trung tâm y tế, các nhà nghiên cứu đã chỉ định ngẫu nhiên 185 bệnh nhân bị u hắc tố di căn, có nghĩa là ung thư đã lan tỏa, nhận vaccin sau đó là interleukin-2- một thuốc hoạt hóa hệ miễn dịch, hoặc chỉ dùng interleukin-2.
Những người được dùng phối hợp vaccin thuốc cho thấy cải thiện nhiều hơn so với những người chỉ được dùng thuốc - đó là theo nghiên cứu được suất bản trên số ra ngày 2 tháng 6 của New England Journal of Medicine. 

Kết quả thử nghiệm: Khoảng 16% những người được dùng phối hợp vaccin/ interleukin-2 cho biết các khối u của học đã co rút lại 50% hoặc hơn, so với 6% ở những người chỉ được dùng interleukin-2. Những người trong nhóm vaccin/thuốc cũng có thời gian sống thêm không tiến triển bệnh dài hơn một chút - 2,2 tháng so với 1,6 tháng - có nghĩa là thời gian khối u không phát triển dài hơn. Những bệnh nhân được dùng phối hợp cũng đã sống lấu hơn trung bình gần 7 tháng so với những người chỉ dùng interleukin -2 gần 18 tháng so với khoảng 11 tháng. Dù có "xu hướng mạnh mẽ" này, những kết quả này vẫn chưa đạt được mức có ý nghĩa thống kê - đó là phát biểu của trưởng nhóm nghiên cứu, TS Douglas Schawartzentruber, giám đốc Y khoa của Trung tâm Chăm sóc Ung thư Goshen ở ĐH Y tế Indiana. Schawartzentruber nói: "Đây là lần đầu tiên một vaccin cho thấy lợi ích trong điều trị cho bênh nhân bị u hắc tố và là một ví dụ sớm cho sự thành công về vaccin ung thư".
Ông và các nhà nghiên cứu khác đã báo cáo rằng mặc dù tác dụng độc do điều trị gây ra là tương tự ở cả hai nhóm, nhưng vaccin này "có thêm một số tác dụng độc khác" ở nhóm được điều trị phối hợp, bao gồm các rối loạn tim thoáng qua như nhịp tim nhanh bất thường (chứng tim đập nhanh), hoặc loạn nhịp tim (15% so với 2%). Ngoài ra, các nhà nghiên cứu đã báo cáo một ca tử vong liên quan đến điều trị ở nhóm chỉ dùng interleukin -2 và 2 ca tử vong ở nhóm liệu pháp phối hợp.
William Chambers, phụ trách Nghiên cứu và Miễn dịch Học ung thư Lâm sàng của Hội Ung thư Hoa Kỳ cho biết các vaccin trị liệu đang được nghiên cứu cho một vài loại ung thư, với các mức độ thành công khác nhau. Trong thử nghiệm u hắc tố, "chúng có đáp ứng. Đó chưa phải là đáp ứng lớn, nhưng rõ ràng có con số khá đáng kể là đáp ứng" - Chamber nói. "Với bệnh này, chưa có nhiều thành công trong điều trị cho bệnh nhân. Tiên lượng là kém. Họ học hỏi được một số bài học có ý nghĩa qua nghiên cứu này". Để cho vaccin này có tác dụng, bệnh nhân phải có một loại mô đặc biệt, gọi là HLA-A2, có khoảng một nửa số người da trắng. Năm ngoái, cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ đã phê chuẩn một loại vaccin để điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Các nhà nghiên cứu tại ĐH California, LosAngeles cũng đang nghiên cứu một loại vaccin để điều trị u nguyên bào thần kinh đệm, loại ung thư não ác tính nguy hiểm nhất.
Vaccin u hắc tố có cơ sở là một peptid - một phần nhỏ của protein, có ở bề mặt của các tế bào ung thư u hắc tố. Được biết đến là vaccin peptid gp 100, việc tiêm này mồi cho hệ miễn dịch nhận biết protein, để từ đó tìm các tế bào sản xuất protein và phá hủy chúng. Schawartzentruber nói thuốc tăng cường hệ miễn dịch interleukin -2 nâng cao hiệu quả của vaccin bằng kích thích tạo các tế bào lympho, một loại tế bào bạch cầu lưu hành khắp cơ thể. Nhiều tế bào lympho lưu hành hơn có nghĩa là có nghiều tế bào hơn sẵn sàng làm công việc mà vaccin đã "huấn luyện" cho chúng làm. Theo các chuyên gia, tỷ lệ sống thêm 5 năm của bệnh nhân u hắc tố là dưới 10%. interleukin -2 đã được FDA phê chuẩn để điều trị ung thư hắc tố di căn và ung thư thận. Các nhà nghiên cứu nói rằng bước tiếp theo là cải thiện hiệu quả của vaccin. Họ hy vọng bằng sự phối hợp vaccin với các chất khác (gọi là tá dược) hoặc các thuốc tăng cường miễn dịch, họ có thể tạo ra đáp ứng mạnh hơn. Schawartzentruber nói: " Hiện nay, chúng ta có một bằng chứng mạnh mẽ cho một nguyên tắc là với điều trị miễn dịch chúng ta có thể thấy lợi ích, nhưng ở thời điểm này lợi ích là còn nhỏ".
Những gì chúng ta quyết định làm là cố gắng phát triển loại vaccin khác phải tạo ra cho riêng mỗi bệnh nhân- các nhà nghiên cứu khác nói. Vaccin này do Viện Ung thư quốc gia Hoa Kỳ phát triển và đây cũng là cơ quan tài trợ nghiên cứu này.

Kéo dài thời gian tuổi thọ cho bệnh nhân ung thư hắc tố di căn

Kéo dài thời gian tuổi thọ cho bệnh nhân ung thư hắc tố di căn
Trong một nghiên cứu hồi cứu, các nhà nghiên cứu trường Đại học Saint Louis đã phát hiện ra những bệnh nhân bị ung thư hắc tố di căn não có thể được điều trị với liều lượng lớn interleukin-2 (HD IL-2)-một liệu pháp kích hoạt hệ thống miễn dịch của cơ thể để tiêu diệt các tế bào ung thư.
Các nghiên cứu gần đây đã được công bố trên tạp chí Thực hành và Nghiên cứu Hóa trị liệu, quan sát tám bệnh nhân trải qua liệu pháp này tại Saint Louis University.
John Richart, MD, giáo sư y học tại SLU và điều tra viên chính của nghiên cứu, người đầu tiên điều trị bệnh nhân bị ung thư hắc tố di căn não bằng cách sử dụng HD IL-2 trong năm 1999.
Ông Richart nói :"Theo cổ điển, bệnh nhân ung thư hắc tố di căn não không xem xét sử dụng HD IL-2 vì điều trị được cho là vô ích. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy bệnh nhân được điều trị bằng HD IL-2 có thể kéo dài thời gian sống của họ."

Ung thư hắc tố là dạng nguy hiểm nhất của ung thư da, hình thành từ các tế bào hắc tố (loại tế bào tiết ra sắc tố da-melanin). Ung thư hắc tố di căn não gây ra nhiều khó khăn trong việc điều trị. Theo CDC, tại Mỹ, ung thư hắc tố đứng hàng thứ 3 trong số các bệnh ung thư hay gây di căn não. Ông Richart cho biết tỷ lệ sống trung bình của các bệnh nhân bị di căn não là khoảng bốn tháng, tỷ lệ sống trung bình là 8,7 tháng.
Trong quá trình điều trị, bệnh nhân được tuyền hóa chất có tác dụng kích thích hệ thống miễn dịch nhận biết và tiêu diệt các tế bào ác tính - thời gian truyền là sáu ngày/1 chu kỳ x 4 chu kỳ, bệnh nhân phải vào bệnh viện và được giám sát chặt chẽ của các bác sĩ và y tá.
Để đủ điều kiện điều trị bằng HD IL-2, bệnh nhân phải có thể trạng và chức năng não tốt - có nghĩa là họ không có tổn thương não đang tiến triển hoặc có triệu chứng của tổn thương não. Trong quá khứ, bệnh nhân mắc bệnh đã di căn não được coi là không đủ điều kiện để điều trị ung thư hắc tố vì các bác sĩ cho rằng việc điều trị sẽ gây phù não, đe dọa tính mạng hoặc gây tổn thương não không thể phục hồi.
"Trong nghiên cứu này, chúng tôi thấy rằng không có trường hợp tử vong liên quan đến điều trị. Những phát hiện của chúng tôi chứng minh rằng HD IL-2 có thể được coi là một lựa chọn cho những bệnh nhân ung thư hắc tố di căn não," MD-Melinda Chu-bác sĩ nội trú năm đầu tại SLU và là tác giả đầu tiên của nghiên cứu cho biết. SLU là trung tâm y tế duy nhất trong khu vực cung cấp phương pháp điều trị này.
Richard nói rằng: "Chúng ta cần một nhân viên điều dưỡng có tay nghề cao để điều trị HD-IL-2 thành công. Nhóm điều dưỡng của chúng tôi tại SLU, mỗi điều dưỡng chăm sóc một bệnh nhân 24/24, họ giúp bệnh nhân hiểu và tiếp tục điều trị."

Thứ Sáu, 27 tháng 2, 2015

Ung thư vú nam có nguy cơ mắc tiếp xúc bức xạ

Hiện nay ung thư vú ở nam giới là rất hiếm. Khoảng 400 người được chẩn đoán mắc bệnh mỗi năm ở Anh so với khoảng 50.000 phụ nữ. Tuy nhiên, các bệnh ung thư vú trước đó được tìm thấy, thì tốt hơn các cơ hội đánh bại nó - vì vậy, bạn có thể thấy tầm quan trọng của nó là để tìm cho ra bất kỳ thay đổi bất thường và có được họ kiểm tra bởi bác sĩ của bạn ngay lập tức.
Các dấu hiệu, triệu chứng, biểu hiện ung thư vú nam giới
Kiểm tra các mô vú của bạn thường xuyên là đặc biệt quan trọng đối với những người đàn ông có tiền sử gia đình bị ung thư vú hoặc một điều kiện di truyền được gọi là hội chứng Klinefelter.
Hầu hết các mô vú ở nam giới được tập trung ở các khu vực trực tiếp phía sau núm vú và vùng sắc tố xung quanh, được gọi là quầng vú.
Hầu hết - mặc dù không phải tất cả - ung thư vú nam giới xuất hiện ở gần núm vú như cục u công ty.
Những thay đổi bất thường để tìm cho ra bao gồm:
Về bệnh ung thư vú - bệnh ung thư vú của nam giới

Vả. 1: một khối u phía sau hoặc gần núm vú của bạn, hoặc ở nách của bạn
Vả. 2: một sự thay đổi trong sự xuất hiện của núm vú hoặc quầng vú của bạn (bao gồm cả thay đổi hướng của núm vú)
Vả. 3: núm vú xả hay núm vú lở loét (loét)
Đàn ông và con trai đôi khi có thể phát triển mô vú nhiều hơn bình thường do một tình trạng gọi là gynaecomastia. Điều này không liên quan đến ung thư.
Nếu bạn nhận thấy bất kỳ thay đổi bất thường với các mô vú của bạn, hãy kiểm tra với bác sĩ của bạn.
Bác sĩ sẽ kiểm tra các triệu chứng của bạn và có thể giới thiệu bạn cho các bài kiểm tra tại một phòng khám bệnh viện nếu cần thiết. Điều này là quan trọng bởi vì nếu bạn có bệnh ung thư vú, bạn có thể bắt đầu điều trị ung thư vú nam ngay, mang đến cho bạn cơ hội tốt nhất có thể đánh bại nó. Ung thư vú ở nam giới được chẩn đoán bằng nhiều phương pháp tương tự như việc chẩn đoán ở phụ nữ, bao gồm cả hình ảnh (chụp nhũ ảnh hoặc siêu âm) và có thể làm sinh thiết.
Các yếu tố nguy cơ ung thư vú ở nam giới
Ung thư vú ở nam giới là rất hiếm nhưng có một số điều có thể làm tăng nguy cơ phát triển bệnh. Ung thư vú ở nam giới được cho là gây ra bởi sự kết hợp của các yếu tố. Chúng tôi vẫn đang tìm hiểu về những gì có thể làm tăng và giảm nguy cơ của một người đàn ông mắc bệnh này. Có những yếu tố đặc biệt làm tăng nguy cơ ung thư vú không có nghĩa là bạn chắc chắn sẽ bị ung thư vú. Tương tự, không có nhiều yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư vú không có nghĩa là bạn sẽ không bị mắc bệnh.
Thậm chí nếu bạn có một yếu tố rủi ro và được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú, không có cách nào chứng minh rằng các yếu tố nguy cơ thực sự gây ra nó.
Các yếu tố nguy cơ đã biết ung thư vú ở nam giới là:
tuổi
Nguy cơ gia tăng bệnh ung thư vú khi bạn già đi. Hầu hết những người đàn ông mắc bệnh ung thư vú ở Anh là trên 60.
Di truyền học - bệnh ung thư vú trong gia đình
Lỗi trong một số gen - như BRCA1 và BRCA2 - được biết là làm tăng nguy cơ của nam giới và phụ nữ mắc bệnh ung thư vú. Cứ 100 người đàn ông với một lỗi trong BRCA2, khoảng sáu đến chín sẽ mắc bệnh ung thư vú trong cuộc đời của họ. Nguy cơ với BRCA1 là nhỏ hơn, với khoảng một trong mỗi 100 người đàn ông mang lỗi gen phát triển ung thư vú.
Tiếp xúc với bức xạ ion hóa
Điều trị xạ trị ngực - ví dụ để điều trị u lympho Hodgkin - được biết là làm tăng nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ. Có một số bằng chứng cho thấy nó hơi có thể làm tăng nguy cơ ở những người đàn ông quá. Nếu bạn có bất kỳ mối quan tâm về xạ trị ngực trước đó, liên hệ với chuyên gia hoặc bác sĩ của bạn.
Nội tiết tố
Đàn ông thường sản xuất các mức cao của androgen - hormone nam - chẳng hạn như testosterone, và các mức thấp của hormone nữ, estrogen. Sự mất cân bằng nội tiết tố, nơi có mức estrogen được nâng lên và nồng độ androgen được giảm nhẹ có thể làm tăng nguy cơ của một người đàn ông mắc bệnh ung thư vú. Điều này là do estrogen có thể thúc đẩy sự phát triển của một số bệnh ung thư vú.
ung thư tuyến tiền liệt
Mang bệnh ung thư tuyến tiền liệt có thể làm tăng nguy cơ của một người đàn ông mắc bệnh ung thư vú. Những lý do để liên kết này không được hiểu rõ, nhưng có thể liên quan đến nồng độ hormone. Khoảng một trong sáu người đàn ông bị ung thư vú sẽ bị ung thư tuyến tiền liệt trong cuộc đời của họ quá.
Giảm nguy cơ
Hầu hết đàn ông có nguy cơ của ung thư vú là thấp. Tuy nhiên, bạn có thể muốn thực hiện các bước để giảm nguy cơ của bạn, đặc biệt là nếu bạn biết bạn có thể có nguy cơ cao hơn, ví dụ do lịch sử gia đình của bạn.

Thứ Năm, 26 tháng 2, 2015

Bệnh nhân hiến tủy cần được kiểm tra trước khi làm phẫu thuật

Việc bệnh nhân mắc bệnh ung thư máu có được người thích hợp để ghép tủy là một điều tuyệt với, cứu vớt lấy họ, bởi đây là cách điều trị ung thư máu có hiệu quả nhất, và những gì mà người cho ghép tủy cần quan tâm là Hiến máu và tủy xương là một quá trình tự nguyện, là sự đồng ý cho phép các Bác sĩ để thu hút các tế bào gốc máu từ máu hoặc tủy xương cho việc cấy ghép.
Nguy cơ nghiêm trọng nhất xảy ra với người hiến tặng có liên quan đến việc sử dụng và ảnh hưởng của gây mê trong phẫu thuật. Sau khi phẫu thuật, có thể cảm thấy mệt mỏi hay yếu và gặp khó khăn khi đi bộ, các khu vực nơi tủy xương được lấy ra có thể cảm thấy đau trong một vài ngày. Có thể sẽ cần thuốc giảm đau để giảm khó chịu. Người hiến tủy có thể sẽ trở lại với thói quen bình thường trong vòng một vài ngày, nhưng có thể mất một vài tuần để hoàn toàn bình phục.
Hiến tế bào gốc máu ngoại vi
Những rủi ro của loại hình hiến tế bào gốc này là tối thiểu. Trước khi tặng, người hiến sẽ được tiêm một loại thuốc làm tăng số lượng của các tế bào gốc trong máu. Thuốc này có thể gây ra tác dụng phụ, chẳng hạn như đau xương, đau cơ, nhức đầu, mệt mỏi, buồn nôn và ói mửa. Các triệu chứng ung thư máu này thường biến mất trong vòng một vài ngày sau khi ngừng tiêm.
Đối với việc hiến tặng, sẽ có một ống thông (mỏng, ống nhựa) được đặt trong một tĩnh mạch ở cánh tay. Nếu các tĩnh mạch trong tay là quá nhỏ hoặc có những bức thành mỏng, có thể cần phải có một ống thông được đưa vào một tĩnh mạch lớn hơn ở ngực, cổ hoặc ở háng. Điều này hiếm khi gây tác dụng phụ, nhưng biến chứng có thể xảy ra bao gồm không khí bị mắc kẹt giữa phổi và thành ngực (tràn khí màng phổi), chảy máu và nhiễm trùng. Trong thời gian đóng góp, có thể cảm thấy chóng mặt hoặc có ớn lạnh, tê hoặc ngứa ran xung quanh miệng, và chuột rút. Sẽ biến mất sau khi tặng.
Hiến tủy xương
Thu thập các tế bào gốc từ tuỷ xương là một loại phẫu thuật và được thực hiện trong phòng điều hành. Sẽ được gây mê cho thủ tục. Kim sẽ được chèn qua da và vào xương để rút tủy ra. Quá trình này thường mất 1-2 giờ.
Sau khi tủy xương được thu thập, sẽ được đưa đến phòng hồi sức trong khi thuốc tê. Sau đó, có thể được đưa đến một căn phòng bệnh viện nơi mà các nhân viên điều dưỡng có thể theo dõi. Khi đang hoàn toàn tỉnh táo và có thể ăn và uống, sẽ được xuất viện.
Trong hiến, máu được lấy thông qua một ống thông trong tĩnh mạch ở cánh tay. Máu được gửi thông qua một máy tính sẽ đưa ra các tế bào gốc. Phần còn lại của máu sau đó trả lại cho thông qua một tĩnh mạch ở cánh tay khác. Quá trình này được gọi là apheresis. Phải mất 2-6 giờ và được thực hiện như một thủ tục ngoại trú. Thường sẽ trải qua 2-4 phiên apheresis, tùy thuộc vào có bao nhiêu tế bào gốc máu là cần thiết. 

Điều kiện hiến tặng:
Người cho tủy – Phức hợp phù hợp mô chính MHC6
Phức hợp phù hợp mô chính hay còn gọi là kháng nguyên bạch cầu người HLA.
Phức hợp này bao gồm một nhóm gene nằm trên nhánh ngắn của nhiễm sắc thể số 6, gồm 3 loại gene, tạo ra các kháng nguyên hệ HLA, gồm 2 loại chính:
- Kháng nguyên lớp I gồm các sản phẩm gene ở các locus A, B, C
- Kháng nguyên lớp II gồm các sản phẩm gene ở các locus D, DR, DQ và DP.
Các kháng nguyên lớp I được xác định bằng phương pháp huyết thanh học nên được gọi là kháng nguyên SD (Serum determined). Còn các kháng nguyên HLA-D được xác định bằng phản ứng nuôi cấy bạch cầu hỗn hợp.
Các bạch cầu lymphô thường mang cả 2 loại kháng nguyên trên. Một số lớn các tế bào khác chỉ mang kháng nguyên lớp I tức kháng nguyên SD. Kháng thể HLA xuất hiện chủ yếu do truyền máu, mang thai, ghép tổ chức hay do tiêm truyền bạch cầu ở những người tình nguyện. Sự khác biệt kháng nguyên hệ HLA của cơ thể cho và nhận càng lớn thì hiện tượng thải ghép xảy ra càng nhanh. Do đó, muốn mảnh ghép sống lâu trong cơ thể thì cần có sự giống nhau về kháng nguyên HLA của cơ thể cho và nhận. 
Xem thêm cách điều trị ung thư máu tại đây: https://sites.google.com/site/ungbuouvietnam/dhieu-ma-benh-nhan-hien-tuy-can

Thứ Ba, 24 tháng 2, 2015

Tìm hiểu nguy cơ về ung thư tình hoàn

Tinh hoàn là các tuyến sinh dục nam và sản xuất testosterone và tinh trùng. Tế bào mầm trong tinh hoàn sản xuất tinh trùng chưa trưởng thành mà đi du lịch thông qua một mạng lưới các ống (ống nhỏ) và ống lớn vào mào tinh hoàn (một ống xoắn dài cạnh tinh hoàn), nơi tinh trùng trưởng thành và được lưu trữ.
Hầu như tất cả các bệnh ung thư tinh hoàn bắt đầu trong các tế bào mầm. Có hai loại chính của các khối u tế bào mầm tinh hoàn là seminomas và nonseminomas. 2 loại mọc và lan truyền khác nhau và được điều trị khác nhau. Nonseminomas có xu hướng phát triển và lây lan nhanh chóng hơn seminomas. Seminomas nhạy cảm với bức xạ. Một khối u tinh hoàn có chứa cả seminoma và nonseminoma tế bào được điều trị như một nonseminoma.
Ung thư tinh hoàn là loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới 20-35 tuổi.
Tiền sử bệnh lý có thể ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư tinh hoàn.
Bất cứ điều gì làm tăng cơ hội nhận được một bệnh được gọi là một yếu tố nguy cơ. Có một yếu tố nguy cơ không có nghĩa là bạn sẽ bị ung thư; không có các yếu tố nguy cơ không có nghĩa là bạn sẽ không bị ung thư. Nói chuyện với bác sĩ của bạn nếu bạn nghĩ rằng bạn có thể có rủi ro. Các yếu tố nguy cơ ung thư tinh hoàn bao gồm:
Sau khi đã có một tinh hoàn undescended.
Sau khi đã có sự phát triển bất thường của tinh hoàn.
Có một lịch sử cá nhân của ung thư tinh hoàn.
Có một lịch sử gia đình ung thư tinh hoàn (đặc biệt là trong một cha hoặc anh em).
Là màu trắng.
Các triệu chứng và dấu hiệu ung thư tinh hoàn bao gồm sưng hoặc khó chịu ở bìu.
Những dấu hiệu và triệu chứng khác và có thể được gây ra bởi ung thư tinh hoàn hoặc do các điều kiện khác. Kiểm tra với bác sĩ của bạn nếu bạn có bất cứ điều nào sau đây:
Một khối u không đau hoặc sưng ở một trong hai tinh hoàn.
Một sự thay đổi trong cách tinh hoàn cảm.
Một cơn đau âm ỉ ở bụng dưới hay bẹn.
Một bất ngờ tăng của các chất lỏng trong bìu.
Đau hoặc khó chịu ở một tinh hoàn hoặc trong bìu.
Các xét nghiệm kiểm tra độ tinh hoàn và máu được sử dụng để phát hiện (tìm) và chẩn đoán ung thư tinh hoàn.

Các xét nghiệm và thủ tục sau đây có thể được sử dụng:
Khám sức khỏe và lịch sử: Một kỳ thi của cơ thể để kiểm tra các dấu hiệu chung về sức khỏe, bao gồm cả kiểm tra các dấu hiệu của bệnh, như cục u hoặc bất cứ điều gì khác mà có vẻ không bình thường. Tinh hoàn sẽ được kiểm tra để kiểm tra xem có cục u, sưng, đau. Một lịch sử của những thói quen sức khỏe của bệnh nhân và bệnh tật qua và phương pháp điều trị cũng sẽ được thực hiện.
Siêu âm thi: Một thủ tục trong đó sóng âm năng lượng cao (siêu âm) được bật ra khỏi các mô bên trong hoặc các cơ quan và làm cho tiếng vang. Những tiếng vọng tạo thành một hình ảnh của các mô cơ thể được gọi là một siêu âm.
Kiểm tra đánh dấu khối u huyết thanh: Một thủ tục trong đó một mẫu máu được kiểm tra để đo lượng chất nhất định phát hành vào máu của các cơ quan, các mô, hoặc các tế bào khối u trong cơ thể. Một số chất có liên quan đến loại hình cụ thể của ung thư được tìm thấy trong khi tăng nồng độ trong máu. Chúng được gọi là chỉ điểm khối u. Các chỉ điểm khối u sau đây được sử dụng để phát hiện ung thư tinh hoàn:
Alpha-fetoprotein (AFP).
Beta-nhân chorionic gonadotropin (β-hCG).
Mức khối u marker được đo trước khi cắt bỏ tinh hoàn bẹn và sinh thiết để chẩn đoán ung thư tinh hoàn.
Cắt bỏ tinh hoàn bẹn: Một thủ tục để loại bỏ toàn bộ tinh hoàn qua một vết rạch ở háng. Một mẫu mô từ tinh hoàn sau đó được quan sát dưới kính hiển vi để tìm tế bào ung thư. (Các bác sĩ phẫu thuật không cắt qua bìu vào tinh hoàn để loại bỏ một mẫu mô sinh thiết, vì nếu ung thư là hiện nay, thủ tục này có thể gây ra nó để lây lan vào bìu và hạch bạch huyết. Điều quan trọng là phải chọn một bác sĩ phẫu thuật có kinh nghiệm với loại phẫu thuật này.) Nếu ung thư được tìm thấy, các loại tế bào (seminoma hoặc nonseminoma) được xác định để giúp kế hoạch điều trị.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng bệnh (cơ hội phục hồi) và các lựa chọn điều trị.
Tiên lượng (cơ hội phục hồi) và các tùy chọn điều trị phụ thuộc vào những điều sau đây:
Giai đoạn của ung thư (cho dù đó là trong hoặc gần các tinh hoàn hoặc đã lan rộng đến những nơi khác trong cơ thể, và nồng độ trong máu của AFP, β-hCG, và LDH).
Loại ung thư.
Kích thước của khối u.
Số lượng và kích thước của các hạch bạch huyết sau phúc mạc.
Ung thư tinh hoàn thường có thể được chữa khỏi trong bệnh nhân đã tá hóa trị hoặc xạ trị liệu sau khi điều trị chính của họ.
Điều trị ung thư tinh hoàn có thể gây vô sinh.
Một số phương pháp điều trị ung thư tinh hoàn có thể gây vô sinh có thể là vĩnh viễn. Bệnh nhân có thể muốn có con nên xem xét ngân hàng tinh trùng trước khi điều trị. Tinh trùng ngân hàng là quá trình đông lạnh tinh trùng và lưu trữ để sử dụng sau.

Chủ Nhật, 22 tháng 2, 2015

yếu tố nguy cơ đối với ung thư đầu cổ

Theo thống kê hơn 90% bệnh ung thư đầu cổ là ung thư tế bào vảy, có nguồn gốc từ tế bào lót (biểu mô) của các tế bào này. Một số yếu tố làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh như môi trường sống, phơi nhiễm hóa chất, tiền sử gia đình, thuốc lá và một số chất kích thích. Nguyên nhân gay ung thư đầu cổ chưa được xác đinh, nhưng những nguy cơ mắc cao hơn người bình thường. Những người sử dụng cả thuốc lá và rượu có nguy cơ phát triển các bệnh ung thư hơn những người sử dụng hoặc thuốc lá hoặc rượu một mình (6-8). Thuốc lá và uống rượu có nguy cơ không được yếu tố cho ung thư tuyến nước bọt. Việc sử dụng rượu và thuốc lá (bao gồm cả thuốc lá không khói, đôi khi được gọi là "kẹo thuốc lá" hay "hít") là hai yếu tố nguy cơ quan trọng nhất đối với ung thư đầu và cổ, đặc biệt là ung thư khoang miệng, hầu họng, hầu dưới, và thanh quản (2-5 ). Ít nhất 75 phần trăm của ung thư đầu và cổ được gây ra bởi thuốc lá và rượu (6). 
Nhiễm với các loại ung thư gây u nhú ở của con người (HPV), đặc biệt là HPV-16, là một yếu tố nguy cơ đối với một số loại ung thư đầu và cổ, đặc biệt là ung thư hầu họng có liên quan đến các amiđan hoặc đáy lưỡi (9-11). Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ mắc bệnh ung thư hầu họng do nhiễm HPV đang gia tăng, trong khi tỷ lệ mắc bệnh ung thư hầu họng liên quan đến các nguyên nhân khác đang giảm (9). Thêm thông tin có sẵn trong HPV và ung thư thực tế tờ.
Các yếu tố nguy cơ khác của bệnh ung thư vùng đầu và cổ bao gồm những điều sau đây:
Paan (trầu quid). Những người nhập cư từ Đông Nam Á, người sử dụng paan (trầu quid) trong miệng nên biết rằng thói quen này đã được gắn liền với tăng nguy cơ ung thư miệng (12, 13).

Paraguay. Tiêu thụ chè Paraguay, một thức uống trà giống như thói quen tiêu thụ của người Nam Mỹ, có liên quan với tăng nguy cơ ung thư miệng, họng, thực quản, thanh quản và (13, 14).
Bảo quản hoặc thực phẩm ướp muối. Tiêu thụ của một số loại thực phẩm bảo quản hoặc muối trong thời thơ ấu là một yếu tố nguy cơ ung thư mũi họng (15, 16).
Sức khỏe răng miệng. Vệ sinh răng miệng kém và mất răng có thể là những yếu tố rủi ro khiến cho các bệnh ung thư khoang miệng (17, 18). Sử dụng nước súc miệng mà có nồng độ cồn cao là có thể, nhưng chưa được chứng minh, yếu tố nguy cơ đối với ung thư khoang miệng (17, 18). Phơi nhiễm nghề nghiệp. Tiếp xúc nghề nghiệp với bụi gỗ là một yếu tố nguy cơ ung thư mũi họng (15, 16). Một số phơi nhiễm công nghiệp, bao gồm tiếp xúc với sợi amiăng và tổng hợp, có liên quan với ung thư thanh quản, nhưng sự gia tăng nguy cơ vẫn còn gây nhiều tranh cãi (19). Những người làm việc trong công việc nhất định trong việc xây dựng, kim loại, dệt may, gốm sứ, gỗ, và các ngành công nghiệp thực phẩm có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư thanh quản (20). Tiếp xúc với công nghiệp gỗ hoặc niken bụi hoặc formaldehyde là một yếu tố nguy cơ đối với ung thư xoang cạnh mũi và mũi xoang (21-23).
Bức xạ tiếp xúc. Bức xạ với điều kiện không phải ung thư hoặc ung thư đầu cổ, là một yếu tố nguy cơ ung thư tuyến nước bọt (17, 24, 25).
Epstein-Barr virus lây nhiễm. Nhiễm virus Epstein-Barr là một yếu tố nguy cơ ung thư mũi họng (26) và ung thư tuyến nước bọt (27, 28).
Tổ tiên. Tổ tiên châu Á, đặc biệt là tổ tiên của Trung Quốc, là một yếu tố nguy cơ ung thư mũi họng (15, 16).
Nguồn tham khảo: http://benhvienungbuouhungviet.vn/tim-hieu-benh-ung-thu/ung-thu-dau-co.aspx

Thứ Hai, 16 tháng 2, 2015

Phác đồ điều trị ung thư tuyến nước bọt chẩn

Các loại khác nhau của điều trị là có sẵn cho bệnh nhân ung thư tuyến nước bọt. Một số phương pháp điều trị tiêu chuẩn (điều trị hiện đang được sử dụng), và một số đang được thử nghiệm trong các thử nghiệm lâm sàng. Một thử nghiệm lâm sàng điều trị là một công trình nghiên cứu này là nhằm giúp cải thiện phương pháp điều trị hiện tại hoặc có được thông tin về phương pháp điều trị mới cho bệnh nhân ung thư. Khi thử nghiệm lâm sàng cho thấy một điều trị mới là tốt hơn so với điều trị tiêu chuẩn, việc điều trị mới có thể trở thành điều trị ung thư tuyến nước chuẩn. Bệnh nhân có thể muốn suy nghĩ về việc tham gia vào thử nghiệm lâm sàng. Một số thử nghiệm lâm sàng chỉ mở cửa cho những bệnh nhân đã không bắt đầu điều trị.
Bệnh nhân ung thư tuyến nước bọt có nên được điều trị theo kế hoạch của một nhóm các bác sĩ là các chuyên gia trong điều trị ung thư đầu và cổ.
Điều trị của bạn sẽ được giám sát bởi một bác sĩ chuyên khoa, một bác sĩ chuyên điều trị những người bị ung thư. Vì các tuyến nước bọt giúp đỡ trong việc ăn uống và tiêu hóa thức ăn, bệnh nhân có thể cần sự giúp đỡ đặc biệt thích nghi với các tác dụng phụ của điều trị ung thư và nó. Các bác sĩ chuyên khoa có thể giới thiệu bạn đến bác sĩ khác, những người có kinh nghiệm và chuyên môn trong điều trị bệnh nhân ung thư đầu và cổ và những người chuyên về một số lĩnh vực của y học. Chúng bao gồm những điều sau đây:
Bác sĩ phẫu thuật đầu và cổ.
Bức xạ ung bướu.
Nha sĩ.
Speech trị liệu.
Chuyên gia dinh dưỡng.
Nhà tâm lý học.
Chuyên gia phục hồi chức năng.
Bác sĩ phẫu thuật.
Ba loại điều trị tiêu chuẩn được sử dụng:
Phẫu thuật

Phẫu thuật (loại bỏ các bệnh ung thư trong một hoạt động) là một điều trị phổ biến cho bệnh ung thư tuyến nước bọt. Một bác sĩ có thể loại bỏ các bệnh ung thư và một số các mô khỏe mạnh xung quanh các bệnh ung thư. Trong một số trường hợp, một hạch (phẫu thuật, trong đó các hạch bạch huyết được gỡ bỏ) cũng sẽ được thực hiện.
Thậm chí nếu các bác sĩ loại bỏ tất cả các bệnh ung thư có thể được nhìn thấy tại thời điểm phẫu thuật, một số bệnh nhân có thể được xạ trị sau phẫu thuật để diệt các tế bào ung thư còn sót lại. Điều trị đưa ra sau khi phẫu thuật, để giảm thiểu rủi ro cho rằng ung thư sẽ trở lại, được gọi là điều trị hỗ trợ.
xạ trị
Xạ trị là phương pháp điều trị ung thư có sử dụng năng lượng cao x-quang hoặc các loại bức xạ để diệt tế bào ung thư hoặc giữ chúng phát triển. Có hai loại xạ trị. Liệu pháp xạ trị ngoài sử dụng một máy bên ngoài cơ thể để gửi bức xạ đối với các bệnh ung thư. Xạ trị nội bộ sử dụng một chất phóng xạ kín trong kim, hạt, dây điện, hoặc ống thông được đặt trực tiếp hoặc gần các bệnh ung thư. Cách điều trị bức xạ được đưa ra phụ thuộc vào loại và giai đoạn của ung thư được điều trị.
Loại đặc biệt của bức xạ có thể được sử dụng để điều trị một số khối u tuyến nước bọt. Chúng bao gồm:
Nhanh neutron xạ trị: bức xạ neutron điều trị nhanh là một loại năng lượng cao xạ ngoài điều trị. Một máy xạ trị nhằm mục đích nhỏ, hạt vô hình, gọi là neutron, những tế bào ung thư để tiêu diệt chúng. Xạ trị neutron nhanh chóng sử dụng một bức xạ năng lượng cao hơn so với các loại x-ray của xạ trị. Điều này cho phép các bức xạ trị liệu được đưa ra trong phương pháp điều trị ít hơn.
Photon chùm bức xạ trị liệu: Một loại xạ trị mà đạt đến khối u sâu sắc với năng lượng cao x-quang được thực hiện bởi một máy gọi là máy gia tốc tuyến tính. Điều này có thể được cung cấp như xạ trị hyperfractionated, trong đó tổng liều bức xạ được chia thành liều nhỏ và các phương pháp điều trị được đưa ra nhiều hơn một lần một ngày.
Hóa trị
Hóa trị là phương pháp điều trị ung thư có sử dụng thuốc để ngăn chặn sự tăng trưởng của tế bào ung thư, hoặc bằng cách giết chết các tế bào hoặc ngăn không cho chúng phân chia. Khi hóa trị liệu được dùng bằng đường uống hoặc tiêm vào tĩnh mạch hoặc bắp thịt, các loại thuốc vào mạch máu và có thể đến các tế bào ung thư ở khắp cơ thể (hóa trị toàn thân). Khi hóa trị được đặt trực tiếp vào dịch não tủy, một cơ quan, hoặc một khoang cơ thể như bụng, các loại thuốc chủ yếu ảnh hưởng đến các tế bào ung thư ở những nơi (hóa trị khu vực). Cách điều trị hoá chất được đưa ra phụ thuộc vào loại và giai đoạn của ung thư được điều trị.
Xem Thuốc được chấp thuận cho đầu và ung thư cổ để biết thêm thông tin. (Ung thư tuyến nước bọt là một loại ung thư đầu và cổ.)
Các loại thuốc mới điều trị đang được thử nghiệm trong các thử nghiệm lâm sàng.
Phần tóm tắt này mô tả phương pháp trị liệu đang được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng. Nó có thể không đề cập đến tất cả các điều trị mới đang được nghiên cứu. Thông tin về các thử nghiệm lâm sàng có sẵn từ các trang web Web NCI.
Radiosensitizers
Radiosensitizers là loại thuốc làm cho các tế bào khối u nhạy cảm với bức xạ trị liệu. Kết hợp xạ trị với radiosensitizers thể tiêu diệt tế bào khối u.
Bệnh nhân có thể muốn suy nghĩ về việc tham gia vào thử nghiệm lâm sàng.
Đối với một số bệnh nhân, tham gia trong một thử nghiệm lâm sàng có thể là sự lựa chọn điều trị tốt nhất. Các thử nghiệm lâm sàng là một phần của quá trình nghiên cứu ung thư. Các thử nghiệm lâm sàng được thực hiện để tìm ra phương pháp điều trị ung thư mới nếu là an toàn và hiệu quả hoặc tốt hơn so với điều trị chuẩn.
Nhiều phương pháp điều trị tiêu chuẩn hiện nay của ung thư dựa trên các thử nghiệm lâm sàng trước đó. Những bệnh nhân tham gia vào thử nghiệm lâm sàng có thể nhận được các điều trị chuẩn hoặc là những người đầu tiên nhận được một điều trị mới.
Những bệnh nhân tham gia vào thử nghiệm lâm sàng cũng giúp cải thiện các bệnh ung thư đường sẽ được xử lý trong tương lai. Ngay cả khi thử nghiệm lâm sàng không dẫn đến phương pháp điều trị mới có hiệu quả, họ thường trả lời những câu hỏi quan trọng và giúp đỡ nghiên cứu di chuyển về phía trước.
Bệnh nhân có thể nhập thử nghiệm lâm sàng trước, trong hoặc sau khi bắt đầu điều trị ung thư của họ.
Một số thử nghiệm lâm sàng chỉ bao gồm những bệnh nhân chưa được điều trị. Phương pháp điều trị thử nghiệm, thí nghiệm khác cho bệnh nhân có ung thư đã không nhận được tốt hơn. Cũng có những thử nghiệm lâm sàng thử nghiệm những cách thức mới để ngăn chặn bệnh ung thư tái phát (trở lại) hoặc làm giảm tác dụng phụ của điều trị ung thư.
Các thử nghiệm lâm sàng đang diễn ra ở nhiều nơi trong nước. Xem phần điều trị tùy chọn sau đó cho các liên kết đến các thử nghiệm lâm sàng điều trị hiện nay. Những đã được lấy ra khỏi danh sách các thử nghiệm lâm sàng của NCI.
Có thể cần phải theo dõi kiểm tra.
Một số thử nghiệm đã được thực hiện để chẩn đoán ung thư tuyến nước bọt hoặc tìm ra các giai đoạn của ung thư có thể được lặp đi lặp lại. Một số xét nghiệm sẽ được lặp đi lặp lại để xem việc điều trị là làm việc tốt như thế nào. Các quyết định về việc có nên tiếp tục, thay đổi, hoặc ngừng điều trị có thể dựa trên các kết quả của các xét nghiệm này. Điều này đôi khi được gọi là tái dàn dựng.
Một số thử nghiệm sẽ tiếp tục được thực hiện từ thời gian để thời gian sau khi điều trị đã kết thúc. Các kết quả của các xét nghiệm này có thể cho biết tình trạng của bạn đã thay đổi hoặc nếu ung thư đã tái phát (trở lại). Những xét nghiệm này đôi khi được gọi là kiểm theo dõi hoặc kiểm tra-up.

Thứ Năm, 12 tháng 2, 2015

ung thư máu ảnh hưởng như thế nào với hệ thần kinh của con người

Những nguyên nhân gây nên ung thư máu như thuốc lá, nhiễm benzen, tiền sử gia đình, tiền sử sử điều trị hóa chất. Những tế bào bệnh bạch cầu là dị thường không thể làm việc bình thường mà những tế bào máu làm. Chúng không thể giúp đỡ cơ thể đấu tranh chống lại bệnh truyền nhiễm. Vì lý do này, những người mắc bệnh bạch cầu thường dễ bị nhiễm trùng và sốt.



Đồng thời, những người bị bệnh bạch cầu thường có số lượng hồng cầu và tiểu cầu ít hơn người bình thường. Kết quả là không có đủ hồng cầu để mang oxy tới khắp các cơ quan trong cơ thể. Điều kiện này, được gọi là sự thiếu máu, những bệnh nhân có thể trông nhợt nhạt và cảm thấy yếu và mệt.Khi không có đủ tiểu cầu, người bệnh dễ bị chảy máu, bầm tím da.
Như tất cả các tế bào máu, những tế bào bệnh bạch cầu cũng đi khắp cơ thể. Phụ thuộc vào số lượng tế bào dị thường và nơi mà những tế bào này tập trung, những bệnh nhân bệnh bạch cầu có thể có một số triệu chứng.
Trong bệnh bạch cầu cấp, những triệu chứng xuất hiện và trở nên tồi hơn nhanh chóng. Những người mắc bệnh này thường đến khám bác sĩ vì họ cảm thấy ốm đi nhanh chóng. Trong bệnh bạch cầu kinh niên, những triệu chứng có thể không xuất hiện trong một thời gian dài. Khi những triệu chứng xuất hiện, lúc đầu nhẹ, sau đó xấu dần đi. Bác sĩ phát hiện bệnh bạch cầu kinh niên khi khám và làm xét nghiệm máu thường qui, mặc dù trước đó người bệnh không có bất kỳ những dấu hiệu ung thư máu nào.
Các triệu chứng chung của bệnh máu trắng (bệnh bạch cầu):
Sốt, rét run, và triệu chứng giống như cảm cúm khác.
Yếu và mệt.
Bị nhiễm trùng thường xuyên.
Kém ăn và giảm cân.
Sưng đau hạch bạch huyết, gan, lách to.
Bầm tím và chảy máu dễ dàng.
Sưng và chảy máu chân răng.
Vã mồ hôi , đặc biệt là về đêm.
Đau khớp và xương.
Trong bệnh bạch cầu cấp, tế bào bất thường có thể tập trung trong não hoặc tủy sống ( cũng được gọi là hệ thần kinh trung ương). Kết quả có thể là những bệnh nhức đầu, nôn, lú lẫn, mất kiểm soát cơ bắp, và co giật. Trong bệnh bạch cầu, tế bào cũng có thể tập hợp ở tinh hoàn và gây sưng to. Một số bệnh nhân thanđau ở mắt hoặc trên da. Bệnh bạch cầu cũng có thể ảnh hưởng bộ máy tiêu hóa, thận, phổi, hoặc những bộ phận khác của cơ thể.
Trong bệnh bạch cầu kinh niên, những tế bào máu dị thường có thể từ từ tập hợp trong nhiều bộ phận của thân thể. Bệnh bạch cầu kinh niên có thể ảnh hưởng da, hệ thần kinh trung ương, bộ máy tiêu hóa, thận, và tinh hoàn.
Xem thêm thông tin tại đây: http://benhvienungbuouhungviet.vn/tim-hieu-benh-ung-thu/ung-thu-te-bao-mau.aspx

Thứ Tư, 11 tháng 2, 2015

Giảm nguy cơ mắc ung thư vú cho nam giới

1. Hãy chụp X quang vú trước khi bước sang tuổi 40 để chẩn đoán ung thư vú nam.
"Chụp X quang không ngăn ngừa hoặc chữa trị được bệnh ung thư vú nam và ở cả nữ nhưng nó giúp phát hiện bệnh sớm, trước khi các triệu chứng bệnh xảy ra" vị tiến sỹ người Mỹ này đã phát biểu với phóng viên của báo New Kerala (Ấn Độ). Phát hiện sớm ung thư vú sẽ giúp việc chữa trị của các bác sỹ dễ dàng hơn và cơ hội sống sót với bệnh này cao hơn.
2. Hạn chế uống nhiều rượu bia
Cồn trong rượu bia có nguy cơ gây ung thư cao đặc biệt là ung thư vú.
3. Thường xuyên tham gia các hoạt động thể chất

Vị chuyên gia này còn lưu ý thêm, đã có bằng chứng cho thấy hoạt động thể chất cũng giúp giảm nguy cơ bị ung thư vú ở các chị em. Theo một nghiên cứu, phụ nữ tham gia các hoạt động thể chất từ 10 - 19 giờ/tuần có cơ hội giảm đến 30% nguy cơ mắc ung thư vú.
Những phụ nữ tập thể dục thường xuyên ít có nguy cơ mắc ung thư vú hơn. Bệnh nhân sống sót sau khi phẫu thuật ung thư vú có hoạt động thể chất thường xuyên cũng sẽ ít có nguy cơ tái phát bệnh hơn.
4. Có một chế độ ăn uống lành mạnh và duy trì cân nặng ở mức độ hợp lý.
"Ăn nhiều rau quả sẽ giúp phụ nữ giảm nguy cơ mắc ung thư vú" - Tiến sỹ Mayer đưa ra lời khuyên. Ngoài ra, hiệp hội Ung thư Mỹ cũng đưa thêm khuyến cáo về một chế độ ăn giàu rau củ, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt và chất xơ để phòng chống chứng bệnh này. Một chế độ ăn giàu chất béo có thể dẫn đến thừa cân hoặc béo phì, một yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư vú, vì nguyên nhân ung thư vú nam chưa được phát hiện
5. Xác định tiền sử ung thư vú của gia đình
Khoảng 5-10% phụ nữ mang gien đột biến gây ung thư vú là BRCA1 hoặc 2, do đó nếu gia đình có người mắc ung thư vú thì nguy cơ mắc bệnh của bạn sẽ cao hơn.
“Đối với phụ nữ có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư vú, xét nghiệm di truyền có thể cung cấp thông tin về nguy cơ bị ung thư vú ở bản thân họ. Nếu một phụ nữ được phát hiện có đột biến gien, họ có nhiều lựa chọn để giúp giảm đáng kể nguy cơ bị ung thư”, chuyên gia Mayer nhấn mạnh.

Cách phòng tránh ung thư tuyến nước bọt có hiện quả

Chưa rõ yếu tố gì gây ra ung thư tuyến nước bọt. Các bác sĩ biết bệnh ung thư tuyến nước bọt xảy ra khi một số tế bào trong tuyến nước bọt phát triển đột biến DNA. Các đột biến cho phép các tế bào phát triển và phân chia nhanh chóng. Các tế bào đột biến tiếp tục sống khi các tế bào khác sẽ chết. Các tế bào tích tụ thành một khối u có thể xâm nhập vào mô lân cận. Các tế bào ung thư có thể vỡ ra và lây lan (di căn) tới các vùng xa của cơ thể. Nhưng người cần được đề phòng bệnh ung thư tuyến nước bọt
+ Phơi nhiễm bức xạ: Bức xạ, chẳng hạn như bức xạ được sử dụng để điều trị ung thư đầu và cổ, làm tăng nguy cơ ung thư tuyến nước bọt. Dưới bức xạ mạnh, chẳng hạn như được sử dụng trong chẩn đoán ung thư tuyến nước bọt X-quang, cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư tuyến nước bọt. Nơi làm việc tiếp xúc với các chất nhất định.
+ Người lớn tuổi: Mặc dù nó có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, ung thư tuyến nước bọt thường được chẩn đoán ở người lớn tuổi (từ 40 trở lên).

Những người làm việc với các chất nhất định, chẳng hạn như các hợp kim niken và bụi silica, có thể có tăng nguy cơ ung thư tuyến nước bọt.
Những người nên đề phòng bệnh ung thư tuyến nước bọt
– Những người làm việc trong môi trường hóa chất độc hại, chẳng hạn như các hợp kim niken và bụi silica, có thể có tăng nguy cơ ung thư tuyến nước bọt.
– Những người lớn tuổi: Chưa có nhiều cơ sở chứng minh rằng tuổi tác có thể gây ung thư tuyến nước bọt thế nhưng ung thư tuyến nước bọt thường xuất hiện ở những người trên lứa tuổi 40.
– Phơi nhiễm bức xạ: Bức xạ, chẳng hạn như bức xạ được sử dụng để điều trị ung thư đầu và cổ, làm tăng nguy cơ ung thư tuyến nước bọt. Dưới bức xạ mạnh, chẳng hạn như được sử dụng trong chẩn đoán X-quang, cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư tuyến nước bọt. Nơi làm việc tiếp xúc với các chất nhất định.
Đối với bệnh ung thư tuyến nước bọt do chưa biết chính xác nguyên nhân gây nên bệnh nên những người nằm trong nhóm có nguy cơ gây bệnh cao thì nên quan tâm tới sức khỏe của mình. Biện pháp tốt nhất để phòng tránh và hiện hiện bệnh sớm đó là đi khám sức khỏe định kì 3 tháng một lần để khám tổng quát cơ thể nhằm phát hiện bệnh sớm, bởi đặc điểm chung của bệnh ung thư là có thể chữa khỏi và điều trị dễ dàng nếu như vừa chớm bệnh. Còn khi bệnh tới giai đoạn cuối rồi thì nguy cơ sống của người bệnh càng phát hiện càng có khả năng mất sớm.
Xem thêm tại đây: benhvienungbuouhungviet.vn/tim-hieu-benh-ung-thu/ung-thu-tuyen-nuoc-bot.aspx

Cafe làm tăng nguy cơ mắc ung thư hắc tố

Bệnh ung thư hắc tố là khối u ác tính của tế bào sản xuất ra sắc tố đen (melanin). Tế bào này chủ yếu phân bố ở da, ngoài ra còn có thể thấy ở mắt, tai, cơ quan tiêu hóa, tế bào não và niêm mạc miệng, sinh dục. Ung thư hắc tố có thể hình thành ở người có nốt ruồi phát triển bất thường, các bớt loạn sản bất thường, tiền sử tăng nhạy cảm ánh sáng, người có da sáng màu, bị bệnh khô da sắc tố, hội chứng đa nốt ruồi, tiền sử bị u hắc tố... Căn bệnh này có nguy cơ cao ở người lớn tuổi (trên 50 tuổi) và ở nam lớn hơn nữ.
Các nghiên cứu trước đây đã cho thấy uống cà phê có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư biểu mô tế bào vảy (non-melanoma)...
Nguyên nhân ung thư hắc tố chưa được tìm ra rõ nhưng mà các nguy cơ làm tăng bệnh ung thư này đã được tìm ra.
Các nghiên cứu trước đây đã cho thấy uống cà phê có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư biểu mô tế bào vảy (non-melanoma), nhưng mới đây nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ còn cho biết, uống cà phê mỗi ngày có thể làm giảm 20% nguy cơ ung thư da hắc tố (melanoma).
hóm nghiên cứu đã đánh giá số liệu của 447.357 tình nguyện viên da trắng không mắc bệnh ung thư khi bắt đầu nghiên cứu. Ban đầu, các tình nguyện viên hoàn thành một bảng câu hỏi về thức ăn, bao gồm các chi tiết về lượng cà phê họ nạp vào cơ thể. Các ca mắc ung thư da được theo dõi trong khoảng thời gian trung bình 10,5 năm. Trong khoảng thời gian này, 2.905 tình nguyện viên phát hiện mắc căn bệnh này.

Các nhà khoa học thấy rằng, hàng ngày các tình nguyện viên uống càng nhiều cà phê thì họ càng khó có khả năng mắc bệnh ung thư da hắc tố trong thời gian theo dõi. Ví dụ, uống 4 cốc cà phê mỗi ngày làm giảm 20% nguy cơ mắc bệnh. Tuy nhiên, các nhà khoa học cho biết kết quả nghiên cứu của họ không có nghĩa là mọi người nên uống nhiều cà phê hơn để giảm nguy cơ ung thư da. “Điều quan trọng nhất mỗi người cần làm để giảm thiểu nguy cơ ung thư hắc tố là tránh tiếp xúc với bức xạ từ mặt trời và tia UV”.
Uống quá nhiều cà phê có thể gây mất ngủ, căng thẳng, bồn chồn, dễ kích động, tim đập nhanh, run cơ và cảm giác khó chịu ở dạ dày.

ung thư vòm họng cần được chú ý những gì

Ung thư vòm mũi họng xảy ra khi các tế bào ung thư phát triển từ các mô trong vòm hầu, khu vực phía sau khoang mũi và phần trên của họng.
Nguyên nhân ung thư vòm họng: Hiện nay người ta vẫn chưa xác định được chính xác nguyên nhân ung thư vòm họng nhưng việc nhiễm vi-rút Epstein Barr (EBV) được xem là có liên quan đến sự phát triển của ung thư vòm họng. Các yếu tố nguy cơ gây ung thư vòm họng bao gồm ăn quá nhiều cá muối từ khi còn nhỏ, ăn nhiều thực phẩm bảo quản hoặc lên men và hút thuốc lá. Ngoài ra,còn có một yếu tố mang tính di truyền trong gia đình, những người thân thiết mức độ một (cha mẹ - con cái) với các bệnh nhân ung thư sẽ có nguy cơ phát triển ung thư cao hơn so với những không có quan hệ gần gũi.
Triệu chứng của bệnh ung thư vòm họng bao gồm: Chảy máu mũi hoặc tắc nghẽn mũi, đờm có máu, các triệu chứng tai, bao gồm tai bị chẹn, ù tai, khiếm thính, đau đầu, hạch bạch huyết ở cổ sưng lên, sụp mi, nhìn đôi (nhìn một hóa hai, tê mặt do ảnh hưởng của thần kinh sọ não, bệnh trở nặng sẽ có các triệu chứng như như sụt cân, mệt mỏi, đau xương, bị xâm nhiễm.
Sử dụng các xét nghiệm, máy móc để chẩn đoán
Hiện nay khoa học phát triển ngày càng tiến bộ cho nên việc tiến hành chẩn đoán ung thư vòm họng được tiến hành sử dụng nội soi vòm hầu qua mũi. Một ống soi mềm và nhỏ được đưa qua lỗ mũi vào vùng phía sau của hốc mũi và bất kỳ vị trí nào trông có vẻ bất thường hoặc phát triển bất thường đều cần làm sinh thiết để kiểm tra có phải bệnh lý ác tính hay không. Nếu phát hiện có hạch bạch huyết phình to, bác sĩ có thể chỉ định bệnh nhân làm dùng kim chọc hút lấy mẫu sinh thiết.
Đối với các bệnh nhân bị ung thư vòm họng không di căn (giai đoạn I đến IVB), phương pháp điều trị chủ yếu là xạ trị.
Xạ trị sử dụng các tia năng lượng cao để tiêu diệt các tế bào ung thư. Xạ trị chỉ tác động đến các tế bào trong khu vực được điều trị. Đối với ung thư vòm hầu, các khu vực được điều trị bao gồm không gian phía sau mũi cũng như hai bên cổ. Hiện nay, các kỹ thuật xạ trị mới hơn như phương pháp xạ trị dưới sự hướng dẫn hình ảnh (IGRT) có thể đưa các bức xạ đến khu vực dự định một cách chính xác hơn, giúp kiểm soát khối bướu tốt hơn và ít tác dụng phụ (bệnh nhân ít bị khô miệng hơn).
Với bệnh nhân mắc ung thư vòm hầu ở giai đoạn đầu có thể áp dụng xạ trị đơn thuần.
Đối với các bệnh nhân ở ung thư muộn (khối u xâm lấn đáy hộp sọ hoặc kiểm tra thấy có sự xâm nhiễm dây thần kinh sọ) và/hoặc giai đoạn hạch muộn (các hạch lớn, xuất hiện các hạch cổ hai bên hoặc các hạch lan rộng đến nền cổ), sẽ được áp dụng hóa trị cùng với xạ trị nhằm nâng cao hiệu quả điều trị.
Vai trò của phẫu thuật trong điều trị ung thư vòm họng hầu rất giới hạn. Phẫu thuật chỉ có thể xem xét áp dụng ở những bệnh nhân có khối bướu tái phát trong vùng mũi sau. Bác sĩ phẫu thuật cũng có thể tiến hành phẫu thuật ở cổ đối với các bệnh nhân vẫn còn sự hiện diện của hạch dù đã trải qua xạ trị, hoặc ở những bệnh nhân tái phát chỉ duy nhất ở hạch cổ.
Hóa trị vẫn là phương pháp điều trị chính cho các bệnh nhân bị ung thư di căn, và cho những bệnh nhân bị ung thư tái phát sau xạ trị.

Nguy cơ cao mắc ung thư vòm họng

Trước đây, thuốc lá được xếp là nguyên nhân ung thư vòm họng hàng đầu gây nên bệnh này. Nhưng các nghiên cứu gần đây cho thấy việc quan hệ tình dục qua đường miệng có nguy cơ cao gây nên căn bệnh này.
Việc quan hệ tình dục qua đường miệng tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ mắc các bệnh hoa liễu như lậu, giang mai, u nhú, sùi mào gà… 
Đặc biệt, nguy cơ ung thư vòm mũi họng ở mức báo động, lên đến 340% ở những người quan hệ bằng miệng với 6 bạn tình trở lên. Bởi nhiễm EBV lây lan qua nước bọt và chất tiết đường sinh dục.
Khi quan hệ tình dục bằng miệng, nếu bạn tình bị nhiễm HPV thì bạn có nguy cơ lây bệnh tương đối cao, xấp xỉ khoảng 90%. Tuy nhiên, cần lưu ý, không phải ai có virus HPV trong người đều phát triển thành ung thư ngay lập tức mà virus sẽ sống tiềm tàng trong cơ thể, đợi hệ miễn dịch suy yếu mới gây bệnh. Theo các nhà khoa học, ung thư họng miệng gây ra chủ yếu bởi chủng virus HPV 16 và 18, chủng virus HPV gây bệnh ở đường sinh dục.




Ăn quá nhiều cá muối từ khi còn nhỏ, ăn nhiều thực phẩm bảo quản hoặc lên men cũng là tác nhân gây ung thư. Người Việt Nam có sở thích và thói quen ăn các đồ muối mặn, lên men nên tỷ lệ người mắc bệnh ung thư cũng khá cao. Bệnh ung thư vòm mũi họng ở nước ta có tỷ lệ cao, đứng hàng đầu trong các bệnh ung thư đầu cổ, đứng hàng thứ 5 trong các bệnh ung thư nói chung. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng đặc biệt hay mắc phải là ở nam giới, tuổi từ 40 đến 60.

Nguồn tham khảo thêm:
http://ungbuouvietnam.blogtiengviet.net/2015/02/12/ung_th_vom_h_ng_t_vi_c_n_u_ng_khong_m_b_

Gây ung thư vòm họng từ v

Nguyên nhân của ung thư vòm họng hiện vẫn chưa thể khẳng định cụ thể. Virut EBV (Epstein Barr Virus) có thể nhiễm vào cơ thể và tồn tại lâu mà không gây xáo trộn gì. Thói quen ăn cá muối khô từ tuổi nhỏ kích hoạt virus gây ung thư vòm họng. Cá muối khô là thức ăn để dành có chứa nitrosamin, chất lâu ngày có thể gây ung thư mạnh. Các tác nhân khác kích hoạt virus gồm: chất benzopyren, khói công nghiệp, hóa chất bốc hơi, viêm vòm họng mãn tính, khói thuốc lá, rượu, tiếp xúc với forol, bụi gỗ. Ngoài ra, nguy cơ mắc bệnh ung thư vòm họng còn có liên quan tới yếu tố chủng tộc và gia đình.
Nguyên nhân chính gây ra ung thư vòm họng chưa được xác định rõ ràng, nhưng theo nghiên cứu thì các yếu tố sau đây có nguy cơ gây ra bệnh ung thư vòm họng:
Các yếu tố môi trường: Nghề nghiệp thường xuyên tiếp xúc với khói, bụi, môi trường kém thông khí, hoá chất (đặc biệt là các hydrocacbon thơm), ăn nhiều cá muối và các thức ăn lên men (dưa, trứng, các loại củ) được xem là những yếu tố nguy cơ cao gây mắc bệnh ung thư vòm mũi họng.
Virus Epstein-barr: Gen của virút epstein- Barr cũng được tìm thấy trong bệnh phẩm sinh thiết từ khối u vòm họng.

Thuốc lá, rượu cũng được xem là yếu tố nguy cơ gây mắc bệnh này.
Yếu tố di truyền: Các nghiên cứu về di truyền học gần đây cho thấy có liên quan giữa mất gen ức chế u ở những bệnh nhân ung thư vòm họng.
Tuổi và giới:
Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, thấp nhất là 5 và cao nhất là 85, tuy nhiên lứa tuổi hay gặp nhất từ 30 - 55 chiếm tỉ lệ 70%.
Giới tính: Bệnh gặp ở cả hai giới, tuy nhiên tỉ lệ nam/nữ = 2,5/1.
Hiện tại các nhà khoa học đang nỗ lực nghiên cứu để phát triển vắc xin phòng virus Epstein-barr, một trong những yếu tố nguy cơ hàng đầu của ung thư vòm. Trong khi chờ đợi các biện pháp phòng bệnh đặc hiệu như trên chúng ta có thể áp dụng các biện pháp khác để nâng cao sức khỏe nói chung, hạn chế các yếu tố nguy cơ khác của ung thư vòm như:
- Thường xuyên luyện tập thể dục thể thao, có chế độ làm việc sinh hoạt hợp lý để nâng cao sức khỏe.
- Không hút thuốc lá, hạn chế bia rượu chất kích thích, hạn chế ăn các thức ăn lên men như dưa muối, cà muối…
- Điều trị sớm những viêm nhiễm ở đường mũi họng.
- Khi phát hiện các dấu hiệu bất thường ở vùng tai mũi họng như đau đầu kéo dài, xì máu mũi, ù tai, hạch cổ to… nên đi khám chuyên khoa Tai Mũi Họng sớm để được nội soi vòm, loại trừ bệnh.

Thứ Ba, 10 tháng 2, 2015

Ung thư vú được phát hiện như thế nào

Những thông tin mới cập nhật cho những bệnh nhân ung thư vú nam ở cả nam và nữ.
Nữ diễn viên và nhà hoạt động xã hội Angelina Jolie đã tạo ra làn sóng mạnh mẽ vào tháng 5/2013 khi cô quyết định cắt bỏ toàn bộ vú sau khi nhận được kết quả dương tính với gen BRCA1 – loại gen đột biến tăng nguy cơ mắc ung thư vú và ung thư buồng trứng.
Quyết định của Jolie tạo động lực cho những người mong muốn được tư vấn về di truyền và nguy cơ mắc ung thu vú ung thư vú. Tại Anh, số người đăng ký kiểm tra gen di truyền tăng gấp đôi sau khi Jolie công bố với báo giới về ca phẫu thuật vú của mình. Rất nhiều người trong số đó có tiền sử gia đình mắc ung thư vú, giống như Jolie.

Xét nghiệm máu đơn giản có thể phát hiện sớm nguy cơ mắc ung thư vú
Kiểm tra gen đột biến BRCA1 không phải là cách duy nhất để đánh giá nguy cơ mắc ung thư vú. Hiện tại, các nhà nghiên cứu tại Đại học London đang sử dụng phương pháp xét nghiệm máu đơn giản nhằm dự đoán khả năng mắc ung thư vú bằng cách xét nghiệm một số biểu sinh nhất định.
Việc áp dụng và mở rộng phương pháp này sẽ là bước đột phá lớn trong y học vì đây là phương pháp xét nghiệm đơn giản, không gây đau đớn lại mang lại hiệu quả cao. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển, khi điều kiện y tế còn khó khăn, thì phương pháp này sẽ là lựa chọn tối ưu nhất.
Hình ảnh 3D sẽ là tương lai của việc chẩn đoán ung thư vú nam phát hiện
Công nghệ hình ảnh 3D mới tên là Tomosynthesis sẽ tạo ra bước đột phá trong việc xác định chính xác các khối u. Một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí AMA kết luận rằng, trong hơn 170,000 xét nghiệm sử dụng cả chụp nhũ ảnh kỹ thuật số và Tomosynthesis, các bác sĩ có thể tăng tỉ lệ phát hiện ung thư, đồng thời giảm số lần bệnh nhân phải quay trở lại bệnh viện vì chưa có kết luận cuối cùng.
Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng, sử dụng đồng thời phương pháp chụp nhũ ảnh và Tomosynthesis có thể phát hiện ung thư dễ dàng hơn so với chỉ áp dụng chụp nhũ ảnh. Sự kết hợp hoàn hảo này sẽ có thể phát hiện ung thư lây lan với tỷ lệ 4,1/1.000 (so với tỷ lệ cũ là 2,9/1.000).
Một số thuốc tránh thai có thể làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú
Những phụ nữ sử dụng thuốc tránh thai, đặc biệt là thuốc có lượng estrogen cao, có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn tới 50% so với những người không sử dụng thuốc hoặc những người đã ngưng sử dụng thuốc. Tuy nhiên, theo tiến sĩ Elisabeth F. Beader, trưởng nhóm nghiên cứu tại Trung tâm nghiên cứu ung thư Fred Hulchinson cho biết, các lý giải về kết quả cần được thực hiện chi tiết và thận trọng.

Chế độ ăn uống ảnh hưởng đến bệnh ung thư vòm họng

Ung thư vòm họng rất khó phát hiện sớm vì ung thư ở vị trí hóc hiểm và các triệu chứng thì lập lờ. Cần phải có chẩn đoán từ phía các bác sĩ, để biết giai đoạn bệnh, dấu hiệu về sức khỏe có phương pháp điều trị ung thư vòm họng phù hợp.
Nguyên nhân ung thư vòm họng chưa được phát hiện nhưng những thông tin về nguy cơ được phát hiện
Theo Hiệp hội ung thư Mỹ, chỉ có khoảng 7/1 triệu người ở Bắc Mỹ mắc loại ung thư này.
Tuy nhiên, bệnh rất phổ biến ở một số khu vực sau:
- Phía Đông Nam, Trung Quốc
- Các khu vực châu Á
- Bắc Phi
- Người dân Inuit ở Alaska và Canada
- Các nhóm người nhập cư Trung Quốc và Hmong ở Mỹ
Tại Hoa Kỳ, ung thư vòm họng thường được tìm thấy ở người Mỹ gốc Phi, gốc Tây Ban Nha và người da trắng.
Bạn có nhiều khả năng mắc loại ung thư này nếu bạn:
Là nam giới
Ít hơn 55 tuổi
Chế độ ăn nhiều cá và thịt muối
Có tiền sử gia đình bị ung thư vòm họng
Có loại gen nhất định có liên quan đến sự phát triển ung thư
Đã tiếp xúc với virus EBV
Các nghiên cứu đã tìm thấy những yếu tố dưới đây được xem là nguy cơ cao để phát triển ung thư vòm họng:
Hút thuốc lá
Uống nhiều rượu
Làm việc ở những môi trường tiếp xúc với bụi gỗ, hay chất hóa học có tên formaldehyde
Khi có các triệu chứng ung thư vòm họng nghi ngờ, người bệnh sẽ được thực hiện một số xét nghiệm chẩn đoán bệnh. Đầu tiên, các bác sĩ sẽ kiểm tra cổ, hầu hết bệnh nhân ung thư vòm họng đều có một khối u ở cổ. Đây là một dấu hiệu cho thấy ung thư đang lây lan đến các hạch bạch huyết. Tiếp theo, các bác sĩ dùng một ống sáng linh hoạt đặt vào miệng hoặc mũi để quan sát vòm họng (gọi là nasopharyngoscopy). Bằng cách này, bác sĩ sẽ kiểm tra được các khu vực tăng trưởng bất thường, chảy máu hoặc các vấn đề khác.
Quan sát vòm mũi họng.
Nếu kiểm tra thấy bất thường, người bệnh có thể được chỉ định sinh thiết. Bác sĩ loại bỏ một số lượng nhỏ các mô để quan sát dưới kính hiển vi. Sinh thiết cũng có thể tiến hành cùng lúc với nasopharyngoscopy. Ngoài ra, các phương pháp chẩn đoán hình ảnh có thể giúp xác định vị trí ung thư và mức độ lan rộng. Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh:



Chụp X-quang
Chụp CT
Chụp MRI
Siêu âm cổ
Các xét nghiệm sau đây cũng có thể được thực hiện để khẳng định ung thư hoặc loại trừ ung thư: Xét nghiệm công thức máu (CBC) và xét nghiệm máu khác Thử nghiệm EBV Nếu bạn được chẩn đoán bị ung thư vòm họng, các xét nghiệm khác sẽ được thực hiện để xác định mức độ ung thư đã lan rộng (điều này được gọi là giai đoạn bệnh).
Xem thêm thông tin về cách điều trị ung thư vòm họng tại đây:

Nghi ngờ mắc ung thư vòm họng bạn cần làm gì



Khi có các triệu chứng ung thư vòm họng nghi ngờ, người bệnh sẽ được thực hiện một số xét nghiệm chẩn đoán bệnh. Đầu tiên, các bác sĩ sẽ kiểm tra cổ, hầu hết bệnh nhân ung thư vòm họng đều có một khối u ở cổ. Đây là một dấu hiệu cho thấy ung thư đang lây lan đến các hạch bạch huyết. Tiếp theo, các bác sĩ dùng một ống sáng linh hoạt đặt vào miệng hoặc mũi để quan sát vòm họng (gọi là nasopharyngoscopy). Bằng cách này, bác sĩ sẽ kiểm tra được các khu vực tăng trưởng bất thường, chảy máu hoặc các vấn đề khác.

Thứ Hai, 9 tháng 2, 2015

Ung thư máu sử dụng ghép tế bào gốc

Diệu Thuần chia sẻ, bệnh tật đến với cô thật bất ngờ. Thuần không nghĩ mình khỏe mạnh vậy mà lại mang bệnh. Những cơn đau chân hành hạ, đau đến không đi lại được và những cơn sốt liên tục, sức khỏe giảm sút, những việc đơn giản nhất như: tắm, gội cũng phải nhờ mẹ, đi lại phải có người cõng… Có những lúc vừa chịu cơn đau, vừa thấp thỏm chờ máu để truyền.
Diệu Thuần cho biết: cuối năm 2011, tôi nằm viện dài ngày, liên tục cần truyền máu nhưng thời điểm cuối năm rất thiếu máu, cả viện thiếu máu, bệnh nhân phải chờ đợi. Mệt mỏi, đau đớn dồn lại, không còn chút sức lực.
Tại thời điểm đó, Diệu Thuần cũng nghe về việc ghép tủy (ghép tế bào gốc) nhưng Thuần không dám hy vọng, cũng không biết có đủ điều kiện để ghép không. Bao nhiêu lo lắng dồn lại nhưng khi được các bác sĩ tư vấn và được sự giúp đỡ của mọ người, Diệu Thuần thấy tự tin hơn và yên tâm để bắt đầu bước vào giai đoạn điều trị mới.
Trải qua 7 năm kiên trì điều trị ung thư máu bằng thuốc nhắm đích Gleevec không có hiệu quả. Đến năm 2012, các y, bác sĩ của Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương đã quyết định thực hiện ghép tế bào gốc cho Diệu Thuần. Tế bào gốc lấy từ người anh trai ruột.
Ths. Võ Thị Thanh Bình – Trưởng Khoa ghép Tế bào gốc, Viện Huyết học – Truyền máu TW - người trực tiếp thực hiện ca ghép cho biết, 30 ngày sau ca ghép, các xét nghiệm tủy của Diệu Thuần đều cho kết quả khả quan. Các chỉ số tế bào máu đã trở lại gần như bình thường….
Kết quả đó như “một phép màu” không chỉ với Diệu Thuần, mà còn mang lại niềm tin điều trị bệnh cho nhiều người bệnh không may mắn mắc bệnh máu, trong đó có những bệnh nhân nhóm bệnh lơ-xê-mi kinh dòng bạch cầu hạt.

Thời điểm này, cũng vừa tròn 2 năm Diệu Thuần điều trị bằng phương pháp mới – ghép tế bào gốc tạo máu, nhưng những dư âm đau đớn của bệnh tật và nỗi thấp thỏm chờ máu vẫn còn chưa phai mờ.
"Trong 3 năm, tôi ăn tết trong hoàn cảnh đối mặt với tử thần vì không có máu để truyền. Rất may mắn khi đó gia đình, bạn bè đã ở bên cạnh, đặc biệt là nhờ vào sự giúp đỡ ân tình của những người chưa bao giờ gặp, sẵn sàng hiến những giọt máu hồng cho tôi”, Diệu Thuần nói.
Được biết, tháng 9/2005, Diệu Thuần phát hiện bệnh máu ác tính, thuộc nhóm bệnh lơ-xê-mi kinh dòng bạch cầu hạt (còn gọi là ung thư máu). Đây cũng là thời điểm Diệu Thuần bước vào đại học. Để trở về cuộc sống như người khỏe mạnh, bình thường. Cô gái đã phải trải qua nhiều khó khăn, nỗ lực chống chọi với bệnh tật.
Diệu Thuần (đeo kính) luôn tham gia vào công tác thiện nguyện, hỗ trợ bệnh nhân mắc bệnh ung thư máu.
Hiện giờ, Diệu Thuần đã khỏe mạnh, bắt đầu cuộc sống bình thường, được làm những công việc yêu thích, từ những công việc đơn giản nhất như đi chợ, nấu ăn, gặp gỡ bạn bè, tiếp tục viết thơ, viết truyện ngắn và đã tìm được việc làm tại một công ty về truyền thông và du lịch. Mặc dù vậy, để đảm bảo sức khỏe tốt, Thuần vẫn phải theo dõi định kỳ 1 tháng 1 lần.
Bên cạnh những công việc đời thường, chia sẻ về những ngày điều trị, nhận được sự giúp đỡ của mọi người, Diệu Thuần luôn mong muốn được khỏe mạnh và muốn góp sức trong việc vận động cộng đồng tham gia hiến máu vì người bệnh. Cũng như, gửi đi thông điệp về nghị lực, niềm tin trong điều trị bệnh. Thực hiện ước mơ này, ngày 21/9 (chủ nhật) này, Diệu Thuần sẽ có mặt tại chương trình hiến máu Festival Nghĩa tình mùa thu – 2014. Chỉ để góp một phần nhỏ bé như các tình nguyện viên để kêu gọi mọi người tham gia hiến máu cho người bệnh.

Sử dụng hóa chất trong điều trị ung thư máu

Phương pháp điều trị ung thư máu bạch cầu lympho ác tính được chỉ định khác nhau phụ thuộc vào loại tế bào bị bệnh bạch cầu, các biến đổi phân tử và đáp ứng ban đầu với hóa trị nhằm tối ưu hóa cơ hội chữa khỏi bệnh và tránh những tác dụng phụ dài hạn không đáng có trong quá trình điều trị. Nhưng nhìn chung, hóa trị là phương pháp hiệu quả nhất để điều trị bệnh này. Một số trường hợp có thể kết hợp xạ trị để đạt kết quả tốt nhất.
Các tế bào bị bệnh bạch cầu được phân loại tại thời điểm chẩn đoán thành bệnh tế bào B hoặc bệnh tế bào T và được nghiên cứu để kiểm tra xem liệu có bất kỳ thay đổi nhiễm sắc thể hoặc phân tử ở cấp độ ADN hay không. Ngoài ra, sự giảm các tế bào bị bệnh bạch cầu cả trong máu và trong tủy xương cũng được giám sát chặt chẽ trong quá trình điều trị. Đây là những việc làm cần thiết để xác định tiên lượng bệnh ở trẻ.
Hầu hết các tác dụng phụ của việc điều trị bệnh ung thư bạch cầu lympho ác tính đến từ hóa trị. Hóa trị tiêu diệt các tế bào bạch cầu bị bệnh – loại tế bào sinh sản nhanh chóng, đồng thời cũng gây ảnh hưởng đến các tế bào bình thường phát triển nhanh như các tế bào từ tóc, ruột, miệng và tủy xương.
Các tác dụng phụ như buồn nôn, nôn, loét miệng và rụng tóc thường xảy ra nhưng chỉ mang tính tạm thời. Với những tác dụng phụ phổ biển như thiếu máu và giảm tiểu cầu có thể khiến cháu khó chịu, khi đó bác sỹ sẽ áp dụng một số biện pháp hạn chế tác dụng phụ giúp cháu cảm thấy thoải mái hơn. Trường hợp cần ngăn ngừa tác dụng phụ có hại do thiếu máu và do số lượng tiểu cầu thấp gây chảy máu, việc điều trị truyền máu sẽ được chỉ định.
Hóa trị có thể có các tác dụng phụ dài hạn như ảnh hưởng đến tim, chức năng nội tiết và khả năng sinh sản sau này. Ngoài ra cũng có nguy cơ phát triển bệnh ung thư thứ hai về sau, đặc biệt là khi sử dụng tia xạ, tuy nhiên, nguy cơ này rất ít và có thể được kiểm soát tốt nhờ việc thăm khám định kỳ.
Bác sĩ mơ trưởng khoa hóa chất:

Triệu chứng khàn giọng có thể là ung thư đầu cổ

Các triệu chứng ung thư đầu cổ có thể bao gồm một cục hoặc một vết loét không lành, đau họng mà không hết, khó nuốt, và một sự thay đổi hoặc khàn giọng nói. Những triệu chứng này cũng có thể được gây ra bởi, điều kiện ít nghiêm trọng khác. Điều quan trọng là phải kiểm tra với bác sĩ hoặc nha sĩ về bất kỳ những triệu chứng này. Các triệu chứng có thể ảnh hưởng đến các khu vực cụ thể của người đứng đầu và cổ bao gồm những điều sau đây:
Khoang miệng. Một miếng vá màu trắng hoặc màu đỏ trên nướu răng, lưỡi, hoặc niêm mạc miệng; phồng lên hàm răng giả gây ra để phù hợp kém hoặc trở nên không thoải mái; và chảy máu bất thường hoặc đau ở miệng.
Họng. Khó thở hoặc nói; đau khi nuốt; đau ở cổ hoặc cổ họng mà không hết; nhức đầu thường xuyên, đau, hoặc ù tai; hoặc khó nghe.
Thanh quản. Đau khi nuốt hoặc đau tai.
Xoang cạnh mũi và khoang mũi. Xoang bị chặn và không rõ ràng; viêm xoang mãn tính không đáp ứng với điều trị bằng thuốc kháng sinh; chảy máu qua mũi; nhức đầu thường xuyên, sưng hoặc khó khác với con mắt; đau ở răng hàm trên; hoặc các vấn đề với răng giả.
Tuyến nước bọt. Sưng dưới cằm hoặc xung quanh xương hàm, tê hoặc liệt cơ ở mặt, hoặc đau ở mặt, cằm, hay cổ mà không hết.
Biết sớm được thì việc điều trị ung thư đầu cổ có hiệu quả kéo dài sự sống cho bệnh  nhân.
Làm thế nào phổ biến là ung thư đầu và cổ?
Chiếm ung thư đầu và cổ trong khoảng 3 phần trăm của tất cả các loại ung thư ở Hoa Kỳ (29). Loại ung thư này là gần gấp đôi phổ biến trong số những người đàn ông khi họ là những người phụ nữ (30). Đầu và cổ ung thư cũng được chẩn đoán thường xuyên hơn ở những người trên 50 tuổi hơn là với những người trẻ.
Các nhà nghiên cứu ước tính rằng hơn 52.000 người đàn ông và phụ nữ ở đất nước này sẽ được chẩn đoán là bị ung thư đầu và cổ vào năm 2012 (30).
Làm thế nào tôi có thể làm giảm nguy cơ phát triển bệnh ung thư của tôi đầu và cổ?
Những người có nguy cơ ung thư đầu và cổ, đặc biệt là những người sử dụng thuốc lá nên nói chuyện với bác sĩ về những cách mà họ có thể làm giảm nguy cơ của họ. Họ cũng nên thảo luận với bác sĩ của họ như thế nào thường có kiểm tra. Ngoài ra, các thử nghiệm lâm sàng liên tục được thử nghiệm hiệu quả của các loại thuốc khác nhau trong việc ngăn ngừa ung thư đầu và cổ ở những người có nguy cơ cao phát triển bệnh này. Một danh sách các thử nghiệm này có thể được tìm thấy tại các liên kết dưới đây.
Các thử nghiệm lâm sàng để ngăn ngừa ung thư đầu và cổ: Thông tin từ các chuyên gia ung thư Dịch vụ thông tin của NCI (CIS) cũng có thể giúp mọi người tìm thử nghiệm lâm sàng cho công tác phòng chống ung thư đầu và cổ. CIS có thể đạt được tại 1-800-4-CANCER (1-800-422-6237) hoặc bằng cách trò chuyện với một chuyên gia thông tin ung thư trực tuyến thông qua LiveHelp.
Tránh nhiễm HPV qua đường miệng có thể làm giảm nguy cơ ung thư đầu và cổ HPV liên quan. Tuy nhiên, nó vẫn chưa biết liệu các loại vắc-xin HPV Food and Drug Administration-phê duyệt và Gardasil ® Cervarix® phòng ngừa nhiễm HPV của khoang miệng, và không phải vaccine vẫn chưa được phê duyệt đối với công tác phòng chống bệnh ung thư hầu họng. Thông tin thêm về các loại vắc-xin là trong tờ NCI Human Papillomavirus (HPV) Vắc-xin.

ung thư trung mô có những yếu tố nào

Yếu tố nguy cơ:
Tiếp xúc Amiăng: Yếu tố nguy cơ chính cho u trung biểu mô,
Amiăng là một khoáng chất được tìm thấy tự nhiên trong môi trường. Sợi amiăng rất mạnh và khả năng chịu nhiệt, làm cho chúng hữu ích trong nhiều ứng dụng, chẳng hạn như trong cách điện, phanh, tấm lợp, ván sàn và nhiều sản phẩm khác.
Khi amiăng bị hư, chẳng hạn như trong quá trình khai thác, khi loại bỏ các vật liệu cách nhiệt amiăng, bụi có thể được tạo ra. Nếu bụi hít vào hoặc nuốt phải, các sợi amiăng sẽ giải quyết trong phổi hoặc trong dạ dày, nơi có thể gây kích ứng có thể dẫn đến u trung biểu mô, mặc dù cách chính xác những điều này xảy ra là không hiểu rõ. Nó có thể mất 20 đến 40 năm hoặc nhiều hơn cho các u trung biểu mô để phát triển như là một kết quả của việc tiếp xúc với amiăng.
Một số người có nhiều năm tiếp xúc với amiăng không bao giờ phát triển u trung biểu mô. Chưa hết, những người khác có tiếp xúc rất ngắn phát bệnh. Điều này cho thấy các yếu tố khác có thể tham gia trong việc xác định xem có ai bị u trung biểu mô hoặc không. Ví dụ, có thể kế thừa hưởng một khuynh hướng đến ung thư hay tình trạng một số khác có thể làm tăng nguy cơ.
Có thể có yếu tố nguy cơ
Yếu tố có thể làm tăng nguy cơ u trung biểu mô bao gồm:
Lịch sử cá nhân tiếp xúc với amiăng. Nếu đã được trực tiếp tiếp xúc với sợi amiăng ở nơi làm việc hay ở nhà, nguy cơ bị u trung biểu mô ngày càng lớn.
Sống với một người làm việc với amiăng. Những người có tiếp xúc với amiăng có thể mang về nhà sợi trên quần áo và da. Những sợi này có thể đặt những người khác trong gia đình có nguy cơ bị u trung biểu mô. Những người làm việc với amiăng nên tắm và thay quần áo trước khi rời khỏi công việc.
Virus khỉ được sử dụng trong vắc-xin bại liệt. Một vài nghiên cứu chỉ ra mối liên hệ giữa virus u trung biểu mô và khỉ 40 (SV40), một loại virus ban đầu được tìm thấy ở khỉ. Hàng triệu người có thể đã bị phơi nhiễm với SV40 khi nhận được chủng ngừa bệnh bại liệt từ năm 1955 đến năm 1963, vì thuốc chủng ngừa đã được phát triển bằng cách sử dụng tế bào khỉ. Một khi nó đã được phát hiện ra rằng SV40 có liên quan đến ung thư, virus đã được loại bỏ từ thuốc chủng ngừa bệnh bại liệt. Dù SV40 làm tăng nguy cơ u trung biểu mô là một điểm của cuộc tranh luận, và nghiên cứu thêm là cần thiết.
Bức xạ. Nghiên cứu một số liên kết u trung biểu mô với chất phóng xạ thorium dioxide, được sử dụng cùng với X-quang để chẩn đoán điều kiện sức khỏe khác nhau từ những năm 1920 đến những năm 1950. U trung biểu mô cũng đã được liên kết với các phương pháp điều trị xạ trị ở ngực, chẳng hạn như những người sử dụng để điều trị ung thư vú hoặc ung thư hạch.
Lịch sử gia đình. Một lịch sử gia đình u trung biểu mô có thể làm tăng nguy cơ u trung biểu mô, nhưng cần nghiên cứu thêm để hiểu lý thuyết này.
Nếu có những đặc điểm trên thì bạn nên đến một cơ sở y tế uy tín để được chẩn đoán ung thư trung mô, nơi có nhiều máy móc hiện đại để kiểm tra và cho kết quả cho bạn nhé
Biểu hiện là: triệu chứng thường gặp và đáng ngại nhất của u trung mô màng phổi là khó thở dai dẳng do tràn dịch màng phổi một bên ồ ạt.

Các triệu chứng ung thư máu bất thường được báo trước

Các triệu chứng ung thư máu được thường thấy trong khác, bệnh ít nghiêm trọng, chẳng hạn như cúm hoặc nhiễm trùng do virus khác. Những triệu chứng này thường bị bỏ qua, nhưng trong trường hợp của bệnh ít nghiêm trọng mà họ sẽ không kéo dài. Với ung thư hạch, các triệu chứng không giảm theo thời gian và không thể được giải thích bởi nhiễm trùng hoặc bệnh khác.
Các triệu chứng phổ biến nhất là tình trạng sưng đau ở một hạch bạch huyết. Các cổ hoặc nách là nơi thường nhận thấy đầu tiên, nhưng có thể xảy ra sưng ở các bộ phận khác của cơ thể bao gồm cả vùng háng (mà có thể gây ra sưng ở chân hoặc mắt cá chân) hoặc bụng (mà có thể gây ra chuột rút và đầy hơi). Một số bệnh nhân lymphoma nhận thấy có sưng ở tất cả trong khi những người khác có quyền khiếu nại của mồ hôi đêm, sụt cân, ớn lạnh, một thiếu năng lượng, hoặc ngứa. Thường không có đau có liên quan, đặc biệt là khi các lymphoma là trong giai đoạn đầu của sự phát triển. Hầu hết những người có khiếu nại không đặc hiệu như vậy sẽ không có u lympho. Tuy nhiên, điều quan trọng là mọi người có các triệu chứng vẫn tồn tại đến gặp bác sĩ để xác nhận rằng không có u lympho hoặc bệnh tật nghiêm trọng là hiện tại.

Danh sách các triệu chứng:
Sưng đau ở một hạch bạch huyết
Ớn lạnh / nhiệt độ dao động
Sốt tái phát và
Mồ hôi quá nhiều vào ban đêm
Giảm cân không chủ ý
Mất cảm giác ngon miệng
Mệt mỏi dai dẳng và
Thiếu năng lượng
Khó thở và ho
Thường xuyên bị ngứa khắp cơ thể mà không có nguyên nhân rõ ràng hoặc phát ban
Mệt mỏi chung
Amidan phì
Đau đầu
* Do tính chất phổ biến của các triệu chứng và vì các triệu chứng bệnh u lympho không xuất hiện trong tất cả các trường hợp, chẩn đoán thường có vấn đề.
Làm chẩn đoán ung thư máu sớm quan trọng để điều trị và kết quả. Vì vậy, giúp đỡ chắc chắn bạn và bạn tình yêu không bị phát hiện không biết của một trong các nút của họ!
More lymphoma tiên tiến có thể trình bày với các triệu chứng sau đây:
Trong một số trường hợp, người ta cảm thấy đau đớn trong các hạch bạch huyết sau khi uống rượu.
Nếu u lympho liên quan đến mô bạch huyết trong ổ bụng, ruột hoặc dạ dày, chất lỏng có thể xây dựng gây sưng gần ruột, có thể dẫn đến cảm giác áp lực bụng, đau, tiêu chảy và / hoặc khó tiêu.
Các hạch bạch huyết mở rộng đôi khi gây ra các triệu chứng khác bằng cách nhấn chống tĩnh mạch (gây sưng một cánh tay hoặc chân), hoặc chống lại một dây thần kinh (gây đau, tê hoặc ngứa ran ở một cánh tay hoặc chân).
Một số người bị đau lưng dưới đó là không giải thích được. Người ta nghĩ rằng điều này có thể được gây ra bằng cách mở rộng các hạch bạch huyết cách nhấn vào các dây thần kinh.
Khi tiến bộ u lympho và các tế bào lympho là ung thư lan tràn ra ngoài hệ thống bạch huyết, cơ thể mất khả năng chống nhiễm trùng. Các triệu chứng tổng quát mà phát triển có thể bị nhầm lẫn với dấu hiệu của cúm, lao, nhiễm trùng khác như bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng hoặc bệnh ung thư khác. (LC)
Biết các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh ung thư máu
Mặc dù số lượng người được chẩn đoán với bệnh u lympho mỗi năm đang gia tăng, nhiều người vẫn không biết về hình thức đe dọa tính mạng của bệnh ung thư.
Điều quan trọng là các cá nhân trên toàn thế giới biết những dấu hiệu và triệu chứng của u lympho bởi vì nó có thể cứu sống bạn. Các dấu hiệu và triệu chứng có thể tương tự, bệnh ít nghiêm trọng khác, làm cho chẩn đoán đôi khi khó khăn. Lymphoma thường được chẩn đoán nhầm là bị cúm hoặc mệt mỏi.
Tuy nhiên, một chẩn đoán sớm là rất quan trọng, bởi vì nếu không được điều trị, một số loại ung thư hạch có thể gây tử vong trong vòng một thời gian ngắn.
Khi biết các nút của bạn, bạn sẽ hiểu rõ hơn về hệ thống bạch huyết của bạn, cũng như biết những dấu hiệu và triệu chứng của ung thư hạch. Nếu các dấu hiệu và triệu chứng được phát hiện sớm, có một cơ hội tốt hơn để chẩn đoán nhanh hơn, điều trị ung thư máu và sống nói chung.

Triệu chứng đốm đổ trên da có thể là ung thư máu

Nguyên nhân ung thư máu đích thực của bệnh chưa được biết rõ, nhưng một số rủi ro có thể gây ra bệnh. Đó là :
- Tiếp xúc với các nguồn phóng xạ, như trường hợp các nạn nhân bom nguyên tử ở Nhật vào cuối Thế Chiến II, vụ tai nạn nổ lò nguyên tử Chernobyl (Ukraine) năm 1986 hoặc ở bệnh nhân tiếp nhận xạ trị. 
- Bệnh nhân ung thư được điều trị bằng dược phẩm. 
- Làm việc trong môi trường có nhiều hóa chất như benzene, formaldehyde. 
- Một số bệnh do thay đổi gene như hội chứng Down, do virus hoặc vài bệnh về máu. 
Triệu chứng:
Làm thế nào để phát hiện sớm và điều trị ung thư máu ? Hãy lưu ý các triệu chứng sau đây nhé vì rất có thể đó là biểu hiện của bệnh ung thư máu đấy
còn được gọi là bệnh bạch cầu. Đây là một bệnh vô cùng nguy hiểm đối với hệ thống máu nói riêng và sức khỏe nói chung. Bệnh ung thư máu thường đi kèm với sự sụt giảm, triệt tiêu lớn số lượng các tế bào máu (hồng cầu). Tỷ lệ tử vong ở các bệnh nhân mắc bệnh này rất cao.
Vậy, làm thế nào để phát hiện sớm và điều trị hiệu quả căn bệnh này? Bạn hãy lưu ý các triệu chứng sau đây nhé vì rất có thể đó là biểu hiện của bệnh ung thư máu!
Đốm đổ trên da
Nếu bạn phát hiện có những đốm màu đỏ hoặc màu tím nổi trên da thì bạn hãy lập tức đến gặp bác sĩ nhé. Bởi rất có thể, hiện tượng đó là hệ quả của việc sụt giảm số lượng tiểu cầu trong cơ thể. Tiểu cầu là tế bào máu tham gia vào việc ngăn chăn chảy máu, giúp
Đau xương
Một trong những triệu chứng chính của ung thư máu chính là đau xương. Các cơn đau có thể xuất hiện tùy theo mức độ của bệnh và thường xuất hiện ở khớp xương chân, đầu gối, cánh tay, lưng… Nguồn gốc của những cơn đau này là từ tủy xương – nơi sản xuất ra các tế bào máu.
Nhức đầu:

Các bệnh nhân được chuẩn đoán mắc ung thư máu thường có những cơn đau đầu dữ dội, đi kèm với đó là hiện tượng đổ mồ hôi, da dẻ xanh xao. Nguyên nhân của hiện tượng này là do sự suy thoái lưu lượng máu đưa lên não khiến não không được cungn cấp đủ oxy nên gây đau đầu.
sưng hạch bạch huyết
Khi bị bệnh ung thư máu, các tế bào bạch cầu mất dần khả năng miễn dịch đối với các vi khuẩn, virus xâm nhập từ bên ngoài. Viêm hạch bạch huyết là một dạng viêm bạch cầu gây ra do vi khuẩn. Do vậy, sưng hạch bạch huyết thường nổi dưới da của bệnh nhân ung thư máu và không gây đau.
da Xanh xao:
Do vậy, sưng hạch bạch huyết thường nổi dưới da của bệnh nhân ung thư máu và không gây đau. Hồng cầu là tế bào máu có chức năng chính là hô hấp, chúng vận chuyển oxy đến tất cả các cơ quan, các mô. Thiếu máu khiến cơ thể trở nên mệt mỏi, xanh xao bởi cơ thể không đáp ứng được nhu cầu trao đổi dưỡng khí.
chảy máu cam:
Chảy máu cam là hiện tượng khá thường gặp, tuy nhiên, nhiều người thường xem nhẹ hiện tượng bệnh lý này. Thông thường, chảy máu cam thưởng xảy ra ở mức độ nhẹ và dễ cầm máu ngay. Tuy nhiên, nếu gặp trường hợp lượng máu chảy nhiều, xảy ra liên tục trong nhiều ngày thì ngay lập tức bạn phải nhập viện và khám bệnh. Bởi rất có thể, bạn đã mang bệnh ung thư máu, bởi đây có thể là hệ quả của việc giảm số lượng tiểu cầu - tế bào có tác dụng cầm máu.
sốt cao thường xuyên:
Bệnh nhân mắc ung thư máu thường suy giảm trầm trọng khả năng miễn dịch. Nguyên nhân là do các tế bào bạch cầu mất dần khả năng tiêu diệt và kháng cự vi khuẩn từ bên ngoài thâm nhập vào cơ thể. Chính vì thế, cơ thể chúng ta thường xuyên bị vi khuẩn, virus từ bên ngoài xâm nhập. Hiện tượng suy giảm miễn dịch thường thể hiện qua những cơn sốt cao, những vết thương nhiễm trùng khó lành.
khó thở: Như đã nói ở trên, ung thư máu dẫn đến sự suy giảm hồng cầu, điều này đã khiến cơ thể không có đủ oxy để thực hiện các chức năng hô hấp và trao đổi dưỡng khí trong cơ thể. Cơ thể bệnh nhân mắc ung thư máu luôn trong tình trạng thiếu oxy dẫn đến khó thở nghiêm trọng.
Đau bụng:
Khi sự tiến triển của bệnh ung thư máu gia tăng ở gan và lá lách, nó có thể gây sưng tấy ở các bộ phận này. Chính vì thế, bệnh nhân sẽ có cảm giác đau bụng, đầy hơi. Mất cảm giác ngon miệng, Dấu hiệu của bệnh thay đổi tùy theo số lượng bạch cầu trong máu và tùy theo nơi mà các bạch cầu ác tính tụ tập. Các dấu hiệu này cũng không tiêu biểu cho ung thư bạch cầu, Vì vậy cần được chẩn đoán ung thư máu
Sau đây là các dấu hiệu thường thấy: nóng sốt, đổ mồ hôi và ban đêm, đau đầu là dấu hiệu thần kinh, mệt mỏi suy yếu, xuống cân dễ dàng mắc bệnh truyền nhiễm do khả năng suy yếu, xuất huyết dễ dàng, đau nhức xương khớp, chướng bụng, gan, lá lách, nổi hạch ở cổ, .. nếu không điều trị ung thư cấp tính đưa tới tử vong rất mau. 

Thực phẩm bổ sung cho người thiếu máu

Bên cạnh sử dụng các thực phẩm chức năng, thuốc để bổ sung sắt, bạn có thể bổ sung vào chế độ ăn của mình một số thực phẩm giàu chất sắt để ngăn ngừa tình trạng thiếu máu, ung thư máu có thể xảy ra.
Một số thực phẩm giàu chất sắt, tốt cho máu như:
1. Những thực phẩm bổ máu có nguồn gốc động vật.
- Gan: Theo nghiên cứu cứ khoảng 100gr gan thì có 9mg sắt có lợi cho cơ thể. Gan bò là loại thực phẩm bổ sung sắt tốt cho cơ thể, ngoài ra gan bò còn chứa hàm lượng cholesterol và giàu calo rất tốt cho người thiếu máu.
- Thịt bò: Đây là loại thực phẩm chứa hàm lượng sắt rất lớn. Trong 85gr thịt bò có chứa 2,1 mg sắt, chính vì thế đây là nguồn bổ sung sắt và lượng hemoglobin cho cơ thể.
- Ức gà: Ức gà là bộ phận chứa nhiếu sắt nhất trong cơ thể của gà. Trong 100gr thịt gà thì chứa khoảng 0,7mg sắt.

- Cá hồi: Cá hồi bổ sung lượng lớn o-mega -3 cho cơ thể ngăn ngừa tình trạng thiếu máu, giảm hiện tượng máu đông, các bệnh về đột quỵ, huyết áp.
- Ngao: Trong 100gr ngao có tới 23mg sắt. Chế biến ngao thành các món hấp, canh, súp là món ăn bổ sung máu và các chất dinh dưỡng cho người thiếu máu.
2. Những thực phẩm bổ máu có nguồn gốc thực vật sẽ góp phần làm giảm nguy cơ mắc bệnh, việc phát hiện dấu hiệu ung thư máu sớm sẽ góp phần điều trị thành công.
Bên cạnh việc bổ xung các thực phẩm có nguồn gốc động vật thì một số thực phẩm có nguồn gốc thực vật cũng có giàu chất sắt giúp ngăn ngừa tình trạng thiếu máu, ung thư máu.
- Nho. Nho có tác dụng tái tạo máu. Nho giàu các chất như photpho, canxi, sắt, vitamin. Đặc biệt nho còn có chức năng đào thải độc tố trong cơ thể, tăng cường tái tạo máu.
- Cà rốt: Trong cà rốt chứa hàm lượng lớn beta-carotene có tác dụng trong việc bổ sung, tái tạo tế bào máu. Những nguyên tố như canxi, đồng, sắt, magie, mangan …có trong cà rốt đều ở dạng dễ hấp thụ.
- Bí đỏ: Trong bí đỏ chứa hàm lượng lớn vitamin B12 – một thành phần quan trọng giúp tăng cường hoạt động của các tế bào hồng cầu, kẽm ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng của các tế bào máu trưởng thành, sắt sản xuất các nguyên tố vi lượng hemoglobin.
- Bông cải xanh: Đây là loại thực phẩm giàu chất xơ, ngoài ra bông cải xanh còn bổ xung một lượng lớn vitamin A, vitamin C, kẽm…rất tốt cho máu.
- Hạt bí ngô: Đây là loại thực phẩm giàu hàm lượng sắt. Cứ trong 100gr bí ngô thì có khoảng 15mg sắt. Ngoài ra bí ngô còn có tác dụng giảm các axit béo, có tác dụng giảm cân.
- Chuối: Là loại thực phẩm dồi dào chất sắt và khoáng chất. Ăn chuối vào bữa sáng giúp điều trị tình trạng thiếu máu đậc biệt tình trang thiếu máu ở phụ nữ mang thai . Ngoài ra chuối còn có tác dụng giảm triệu chứng táo bón hiệu quả.
Đây là một số thực phẩm vàng giúp bổ sung chất sắt có lợi cho máu, ngăn ngừa nguy cơ mắc ung thư tế bào máu. Tuy nhiên cần đi khám ngay nếu cơ thể thấy các hiện tượng mệt mỏi, suy nhược cơ thể, tê nhức chân tay, đau đầu…